Nữ sinh trường Terexa Tri Bưu. Ảnh từ trang my.opera.com/tribuu
Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm,
được một quan tiền
Ra chợ
Kẻ Diên mua con gà mái
Về
nuôi ba tháng; hắn đẻ ra mười trứng
Một trứng: ung, hai trứng: ung, ba trứng: ung,
Bốn trứng: ung, năm trứng: ung, sáu trứng: ung,
Bảy trứng: cũng ung
Còn ba trứng
nở ra ba con
Con diều
tha
Con quạ
quắp
Con mặt
cắt xơi
Chớ
than phận khó ai ơi!
Còn da lông mọc,
còn chồi nảy cây
(Ca dao Bình Trị
Thiên)
Đây là bài ca dao được
khá nhiều tác giả bình luận. Nhìn chung, họ đều gặp
nhau ở một điểm: trong hoàn cảnh
khốn cùng của cuộc sống,
người nông dân vẫn lạc quan, tin tưởng
vào ngày mai. Song nếu
nhìn từ góc độ tư tưởng
của triết lý âm - dương, chúng ta sẽ khám phá những điều bất
ngờ và đầy thú vị ẩn
chứa trong bài ca dao, đó
là lối tư duy số lẻ
và tính cách lạc quan,
tin tưởng của người Việt
Nam.
1. Tư
duy số lẻ
Qua hình ảnh
bảy quả trứng bị
ung và ba chú gà con cũng không thể
tránh khỏi số phận bi đát, ta bắt
gặp một cặp số
bảy và ba theo lối tư duy số
lẻ.
Phải
thừa nhận rằng, tư
tưởng triết lý âm dương ảnh hưởng
rất lớn đến tư
duy, tính cách của người Việt Nam. Người
Việt Nam rất thích dùng số lẻ, thậm
chí đơn giản như việc
tặng hoa, cắm hoa hằng ngày, họ
cũng thường chú ý đến số lượng
bông hoa: một, ba, năm, bảy, chín Vì sao vậy? Theo triết lý âm dương, số chẵn
là âm, số lẻ là dương (cũng như
hình vuông = âm, hình tròn = dương,
lạnh = âm, nóng = dương , tối = âm, sáng = dương).
Không nằm
ngoài lối tư duy truyền thống đó, cặp
số bảy - ba ở bài ca dao trên minh chứng cho lối
tư duy số lẻ của
người Việt Nam. Tư duy số lẻ
còn thể hiện trong hàng loạt cách nói ví von: ba chìm bảy nổi, ba hồn
chín vía, ba lo bảy liệu, ba bè bảy mối, ba vành bảy
vẻ,... Xét rộng ra, tư duy số lẻ
không chỉ dừng lại ở
cặp số bảy và ba mà còn thể
hiện ở những cặp
số khác như: ba mặt một
lời, năm thê bảy thiếp, năm lần
bảy lượt, hay một câu nhịn chín câu lành, một lời nói dối
sám hối bảy ngày,...
Cũng không phải
ngẫu nhiên mà khi lạc vào thế giới truyền
thuyết, cổ tích, chúng ta thường bắt gặp
mô-típ: "Voi chín ngà, gà chín cựa,
ngựa chín hồng mao,..." hay "vượt qua ba quả đồi, chín quả
núi",... Tư duy số lẻ còn thấm
sâu vào hồn thơ dân tộc, ví như
Hồ Xuân Hương từng hạ
bút:
Thân em vừa
trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
(Bánh trôi nước)
Hay trong "Giấc
mơ anh lái đò" của thi sĩ Nguyễn Bính, con số 9 như là điểm
trung tâm của bài thơ:
Đồn rằng đám cưới cô to
Nhà giai thuê chín chiếc
đò đón dâu
Nhà gái ăn chín nghìn cau
Tiền
cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
... Lang thang anh dạm
bán thuyền
Có người
trả chín quan tiền lại thôi ..
Rõ ràng, xuất
phát từ nguồn gốc của
tư tưởng triết lý âm dương,
tư duy số lẻ không chỉ
hình thành ngay trong cách nói hằng
ngày mà còn trở thành một mô típ trong văn chương nghệ thuật.
2. Tính cách lạc
quan, tự tin
Đoạn kết của bài ca dao:
Chớ
than phận khó ai ơi!
Còn da lông mọc,
còn chồi nảy cây
Tinh thần
lạc quan, tin tưởng vào tương lai là một trong những tính cách của người nông dân Việt
Nam. Tính cách ấy suy cho
cùng, cũng được bắt nguồn từ
tư tưởng triết lý âm - dương.
Theo quy luật
của triết lý âm - dương thì "trong âm có dương, trong dương có âm", từ quy luật đó mà người
Việt Nam suy luận: "trong họa có phúc", "trong rủi có may",... Hơn thế nữa,
xuất phát từ quy luật âm dương
chuyển hóa cho nhau
"âm sinh dương, dương sinh âm" người Việt chúng ta hiểu
rất rõ những quan niệm: "yêu nhau lắm, cắn nhau đau", "trèo cao ngã đau",
"bĩ cực thái
lai",... Điều đó
cũng có nghĩa, bất kỳ việc gì đều phải
có điểm dừng, không quá thấp và không quá cao. Nói cách
khác, đó chính là sự thể hiện của
"triết lý sống quân bình". Và chính
triết lý sống quân bình này đã tạo nên tính cách lạc quan, tự tin ở người
Việt, họ không nản chí trước khó khăn, họ luôn tin tưởng vào ngày mai tốt đẹp bởi
lẽ "triết lý sống quân bình" đã thấm sâu vào máu thịt
họ, tinh thần tự tin lạc
quan đã nằm sâu trong ý
thức của họ.
"Mười
quả trứng" là bài ca dao thể hiện sâu sắc
tính cách ấy. Mặc dù tài sản duy nhất "mười quả trứng"
cuối cùng lại trở về
là con số 0 thậm chí còn âm vì chủ sở hữu
của nó phải "đi vay, đi dạm, ...". Song người nông dân Việt Nam vẫn tin tưởng,
vẫn hy vọng vào tương lai tươi sáng.
3. Thay lời
kết:
Tác giả
bài viết này xin được bổ sung thêm một
câu "Không ai giàu ba họ,
không ai khó ba đời".
Lại là
niềm hy vọng và tính cách lạc quan - có thể nói đã trở thành một nét đẹp văn hóa của
dân tộc Việt Nam.
Liễu Hạnh
*******
“HÒ VÈ GIEO DUYÊN”
O…tê,…O tê..!!!..bớ
…O..tê….
Côi đàng răng O khôô..ng đi mà O đi đưới Rọọ..ng
?
Ló đạ
cắt rồi, O đi mỏi cẳng chưa
?
Mỏi rồi ngồi xuống
Eng nói chò O nghe nì…
Khoai to vồồ..ng
(thì) tốt cộ.
Đậu ba
lá vừa un.
Gà mất
Mạ lâu khun.
Trời
sinh Trâu, sinh cỏ.
Trời
sinh Giếng, sinh Mo.
Trời
sinh O, sinh Tui.
Trai khôô..ng Vợ,
thấu khộ.
Gái khôô..ng Dôô..ng cũng thấu
khộ.
Khoai xấu
dây (mà) tốt cộ.
Gió ngoài Biển
(hắn) thổi vô.
Mây côi Trời
(hắn) cuộn lại.
O với
Tui cùng cuộn lại.
Miềng
kiếm đứa còn Trai.
Nuôi cho đời
đợ ốố..cc dộộ..c..
Được
khôô..ng…Ha…ha…ha..a..a..a.
HLN sưu
tầm.