|
Lồng đèn trang trí đường phố ở Sri Lanka để chào mừng Lễ Vesak |
ĐỨC PHẬT
VỀ NHÂN BẢN & GIÁC
NGỘ
· Lễ VESAK 2015
Mãi
cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhận và tuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế
(lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ)
vừa qua.
Mặc
dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất mà chúng ta đang có mặt nầy đã
hơn 2.559 năm về trước, và hiện nay đang
bước sang thập niên thứ 2 của thế kỷ thứ 21. Thế kỷ mà phần nhiều mọi người đều
cho rằng : sự vươn mình lên tầm đỉnh phát triển khoa học, kỷ thuật, văn minh
trong đời sống xã hội con người, và cũng có một số quan điểm cho rằng : thời kỷ
phát triển của “Văn hóa tâm linh” từ các thể thức tôn giáo, trong đó có phần
phát biểu của người theo Đạo Phật.
Tổ
chức Liên Hiệp Quốc dù không công bố, hay chưa có cơ hội công bố, thì giáo lý Đức
Phật nghiễm nhiên từ xa xưa cho đến ngày nay cũng đã trở thành một Thông Điệp
tình thương, bình đẳng và trí tuệ, luôn thể hiện tính cách tôn trọng sự sống,
không những cho loài người mà còn cho cả muôn loài. Nhất là giữa con người với
con người khi được có mặt trong cộng đồng xã hội, mà trước đây là xã hội phân
chia giai cấp một cách rạch ròi của Ấn Độ, khi ấy Đức Phật đã tuyên bố :
“Không có giai cấp trong
dòng máu cùng đỏ,
trong dòng nước mắt cùng
mặn.”
Càng
tiến xa hơn, như một tuyên ngôn giải phóng và giải thoát những điều đã và đang
đè nặng một cách lầm lỳ chấp thủ cố hữu của một lớp người không những trước đây
và ngay cả bây giờ, một khi họ đang đứng trong địa vị, giai cấp, hay dòng họ
nào đó, và nhìn sang một giai cấp, dòng họ khác bằng một cái nhìn thiển cận thấp
kém, có chiều xu hướng theo truyền thống, tập tục.v.v… nhẹ tưng bởi từ những chất
liệu thiếu ý thức nhân tính. Chính vì lẽ đó mà Đức Phật, lại một lần nữa xác định
tính nhân bản trong đạo lý từ bi và trí tuệ của Ngài :
“Bần tiện không vì
sanh,
Phạm chí không vì sanh,
Do hành sanh bần tiện,
Do hành sanh Phạm chí.”
Kinh Tiểu
bộ I
Và
cũng chính bắt đầu từ đó, giáo lý Đức Phật như một hệ thống thanh lọc dẫn máu để
nuôi dưỡng sự sinh tồn toàn mãn đến cơ thể của nhân loại đã có tự ngàn xưa và
cho đến tận ngàn sau nữa. Do đó, trước khi tổ chức Hội Đồng Liên Hiệp Quốc công
bố Phật Đản Quốc tế, chúng ta có dịp nghe những lời phát biểu hữu ích từ các
nhà thức giả nói về Đức Phật như sau : “
Tinh hoa của Đạo Phật là cho con người có được Hòa bình, Từ bi, Thông cảm, Hiểu biết, Bất bạo động và
Bình đẳng” (Narendra Bikrana Shait).
Tất
cả những cốt lõi ấy từ hơn 2.500 năm nay, đã thật sự tác động và tưới tẫm lên hằng
triệu triệu tâm hồn trong mọi lảnh vực sinh hoạt từ xã hội của con người, và do
con người bằng nhận thức hiểu biết trước sự vận hành của thế giới vật chất, một
quỷ đạo gần như duy nhất mà tất cả mọi sinh loại đã và đang sống hay sẽ sống phải
bị rơi vào trục quay cuốn cuồn điên đảo, bởi do lực hấp dẫn cảm thụ, nguyên
nhân phát sinh mọi khổ đau, và cũng từ đó lại tạo thêm nhiều khổ pháp theo từng
chập ác tư duy ngay thời gian hiện tại.
Trở
lại vấn đề Nhân Bản; đó là tinh thần đạo đức bao dung, tự do hòa hợp từ trong
lương tâm đến và cho sự cộng sinh của nhân loại. Xét thấy tính Nhân Bản hay
Nhân Văn, nó phải được vượt thoát ra ngoài hình thức lề lối biện hộ về phong tục,
tín ngưỡng.v.v… Nó chỉ được nói đến hay
tán đồng bởi từ những nhận thức về chất liệu thiện chí hiểu biết đạo đức, kết nối
lương tri và lương tâm qua cộng đồng của con người. Tính Nhân Bản ấy được xem
là giải pháp tồn tại lâu dài cho nhân loại, và tất nhiên không thuộc phạm vi
giáo điều mặc khải, hay sự ước lệ quyết đoán nhân danh của một thần linh huyền
ký nào.
Từ
lảnh vực hoạt động trong xã hội con người, nhất là trong những thời kỳ cận đại
và hiện đại nầy, tinh thần nhân bản được hiểu qua một số ý nghĩa như sau :
1/-
Được nói đến thực tính Tình thương và Hạnh Phúc
2/-
Đề cao phẩm chất con người.
3/-
Tôn trọng sự phát triển khả năng kiến thức của con người.
4/-
Tôn trọng tính sáng tạo
5/-
Tôn trọng và đề cao sự hiền thiện của con người.
Trong
khi tính Nhân bản ngày càng phát triển và tôn trọng trong xã hội, cũng chính là
sự phát triển ý thức trong sáng tự do, bình đẳng, hạnh phúc và nhân phẩm bằng ý
tưởng lành mạnh được ngang qua chiều hướng thượng. Do đó, việc họa phước, lành
dữ, tốt xấu.v.v… không tự dưng ai ban cho hay giáng đến, mà là do ;
“Họa phúc vô môn
Duy nhơn tự triệu”.
Cùng
thế ấy, với sự cảnh tỉnh qua lời dạy của Ngài Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên):
“Khi một ý xấu vừa manh
nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm, như cây bám chặt rễ vào
đất”
(Nhập Bồ Tát Hạnh – 34).
Đây
là một trong những yếu tố nhân bản, mà cũng là ý thức giác ngộ giữa muôn trùng
pháp duyên sanh diệt nơi thế gian để đưa đến hạnh phúc hay đau khổ, hiển thị
tình thương hay hận thù… Thế nhưng, trước bao sự kiện và hiện tượng trong cuộc
sống luôn chuyển động không ngừng thay đổi theo từng chập thời gian sanh hóa và
tiêu tàn. Đồng thời, kiến thức nó luôn phân định, so sánh bởi những tư duy chủ
nghĩa, tôn giáo, tông phái , đảng phái, chủng tộc, ta người. Nó luôn là sự chất
chồng kết tập để trở thành thói quen nô lệ, kết quả từ dục tham, dục tưởng mà
ra. Chính nó là đặc tính từ lòng tham lam, nó luôn là sự phân biệt khách chủ,
vinh nhục, được mất, tốt xấu, đòi hỏi và từ chối, phấn khởi và thất vọng.v.v… rồi
dẫn đến những cuộc đấu tranh, khổ vui, xây dựng và tàn phá…
Qua
một vấn đề khác, gần đây có cụm từ được đề cập đến khá phổ biến, đó là : “Văn
hóa tâm linh” , một khi có cơ hội kiến tạo một cảnh quan du lịch mà trong đó có
chịu phần ảnh hưởng đến hình thức tín ngưỡng, hay xây dựng một bảo tượng Đức Phật,
Bồ Tát.v.v… thì được xem đó là thời kỳ phát triển “Văn hóa Tâm Linh” hay “Du lịch
Tâm linh”. Thiết nghĩ, “văn hóa tâm linh, hay du lịch tâm linh” không phải chỉ
có cách nghĩ đơn thuần qua hiện tượng như thế, nói một cách khác; nó có thể trở
thành cái vỏ khổng lồ mà thực chất bên trong là trống ruột.
Điều
ấy cho chúng ta thấy rằng : Nó phải được nhiếp tâm tu tập, có mang lại hệ quả
và hiển lộ của sự tu tập, nó phải được thành tựu phạm hạnh qua các pháp của bậc Thánh, hay đang lạc trú từ
các pháp của bậc hữu học từ phía tác nhân. Tức nhiên, nó phải được vuợt thoát
ngoài vòng lẩn quẩn tính toán lợi hại hơn thua.v.v… Khi một trong những ý niệm ấy
có manh nha trong việc kiến tạo, xây dựng nói trên, thì bấy giờ chưa thật sự
đúng nghĩa “Văn hóa tâm linh” .
Một
điểm khác nữa, cho rằng thời kỳ phát triển Văn hóa tâm linh, ở đây chúng ta có
thể nói rằng; hiện nay là thời kỳ mà chúng ta đang phát tâm hướng vọng, chiêm
ngưỡng, lễ bái và hấp thụ đến sự thành tựu “Văn hóa tâm linh” từ Đức Phật, Chư
Bồ Tát, Lịch Đại Tổ Sư, Thiền sư, và các bậc tiền hiền trước đây đã để lại như
một công trình siêu vượt vĩ đại cho vũ trụ và nhân sinh. Chúng ta có thể hiểu
qua công trình vĩ đại tâm linh ấy, như :
“Với ai các tùy miên
Hoàn toàn không hiện hữu
Các nguồn gốc bất thiện
Được nhỗ lên trừ sạch…” Kinh Tiểu bộ 1.
Những
pháp có năng lực đem lại sự thanh tịnh, bình an trong suốt, phải được minh chứng
ngang qua hành động sinh hoạt hằng ngày trong cuộc sống, nó không còn là ngôn
thuyết cho lý tưởng, mà nó phải là hiện thực tại đây và bây giờ. Một hôm tại
khu rừng Gosinga, nơi đây có chư Thánh đệ tử của Phật, và được hỏi đến, làm thế
nào để được chói sáng khu rừng Gosinga nầy ? Một trong những Tôn giả, đó là
Ngài Ananda trả lời như sau : “… vị tỷ kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe,
tích tụ điều đã nghe… Nói lên phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh… những pháp ấy được
ý tư duy, được tri kiến khéo quán sát… Với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên… Tỷ
kheo nầy có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga nầy” (Trung Bộ 1, 32).
Như
vậy, “…Với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên…”
chính là những diệu pháp, thắng pháp để xây dựng nền tảng vĩ đại “Văn
hóa tâm linh”. Từ khi Phật và chư Thánh đệ tử, cũng như chư lịch đại Tổ Sư,
Thánh Tăng, các bậc tiền hiền đã lần lượt nhập diệt cho đến nay. Nhưng vẫn luôn
luôn thắp sáng, rực sáng, chói sáng bằng những diệu pháp thù thắng, vẫn thường
hằng đem lại nguồn lạc pháp thanh tịnh bình an, vượt thoát mọi khổ đau cho
chúng sanh, chư thiên, và loài người, đều khởi nguồn từ Văn hóa tâm linh ấy.
Để
kết thúc bài viết hướng về ngày Đức Phật thị hiện vào đời, chúng ta cùng đọc lại
lời dạy của Đức Phật như sau : “...Dục hỷ
là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với các loài
sinh vật.” (Trung Bộ I, 1).
Ít
nhiều qua sự cảm nhận chơn lý sâu xa ấy trong mỗi lúc hiện tại, đó cũng chính
là Đức Phật luôn thị hiện và du hóa vào đời, chớ không phải chỉ một lần cách
đây trên 2.500 trước.
Louisiana, New Orleans, 15.04. 2015.
TUỆ NHƯ (MẶC PHƯƠNG TỬ)