Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, June 18, 2017

CON ĐÒ BẾN CỘ - Thơ Phan Khâm - nhạc Nguyễn Tất Vịnh





Cây Đa Bến Cộ
(Bến Sông Ô Lâu) 

Phan Khâm

Khi mô về Bến Cộ
Nhớ cây đa, con đò
Nghe chuyện tình dang dở
Em nhìn chị ngẩn ngơ

À ơi con nước con đò
Trên sông ai thả câu hò lửng lơ
Cát bồi cát lỡ tương tư
Con hàu con hến ngất ngư phận đời

Khi mô về Bến Cộ
Em xin chị câu hò
Dù gặp nhiều gian khổ
Sao chị vẫn đành cho

Khi mô về Bến Cộ
Em nhớ mãi câu hò
Chim xa đàn lìa tổ
Lạnh lùng chị co ro

Khi mô về Bến Cộ
Bao giờ bới âu lo
Khua mái chèo sống vỗ
Trăm năm lỗi hẹn hò

“Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa Bến Cộ con đò khác đưa
Cây đa Bến Cộ còn lưa
Con đò đã thác năm xưa tê rồi..”

Phan Khâm 
READ MORE - CON ĐÒ BẾN CỘ - Thơ Phan Khâm - nhạc Nguyễn Tất Vịnh

EM CHỜ ANH... - Thơ Đan Thụy

Tác giả Đan Thụy



EM CHỜ ANH...
Đan Thụy


Em chờ anh đi qua mùa rét buốt
Giọt mưa xiên thấm ướt... nhọc nhằn
Chiều xuống chậm con đường qua lạnh cóng
Dấu rêu buồn... mùa đông ngã nghiêng em

Em chờ anh đi qua mùa rét buốt
Tháng mười hai mái phố ngập gió mùa...
Anh đã xa, xa nhiều ngày lá đổ
Chỉ bóng hình ngồi tự vấn con tim...

Em chờ anh đi qua mùa rét buốt
Chợt nghe đời lắng đọng câu thơ...
Tiếng hát rong nửa chừng rơi trên phố
Phố quen rồi... con phố không tên

Em chờ anh đi qua mùa rét buốt
Để lao xao, lắng lặng nhớ người
Chiếc khăn lụa thay vòng tay ấm
Tim thầm thì... thương tiếc sắc vàng phai

Em chờ anh đi qua mùa rét buốt
Anh nơi đâu?!... em mưa trắng lấp trời...


ĐT
READ MORE - EM CHỜ ANH... - Thơ Đan Thụy

“LAN MAN...” VÀ LAN MAN CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đỗ Anh Tuyến




“LAN MAN...” VÀ LAN MAN
CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN



Khi đọc 2 bài thơ “Lan man và…”, sáng tác theo trường phái siêu thực của Đặng Xuân Xuyến, tôi thấy “lạ” và thích nhưng không có ý định viết lời bình. 

Chiều qua, 14 tháng 06 năm 2017, đọc bài tản văn Cú điện thoại bình thơ của cùng tác giả Đặng Xuân Xuyến, tôi ôm bụng cười khi đọc lời bàn rất vui của một “ông chú” về 2 bài thơ “Lan man và...” này:
“- Thơ của cậu thế nào ý. Đấy đếch phải là thơ. Kiểu như cái bài Lan man và chuyện đàn cừu, với bài Lan man và chuyện thằng bạn. Đúng là lan man thật. Sao lại lôi con Cừu vào thơ thế? Lại bình đẳng con Cừu với Con Người Việt Nam ta là thế nào? Cậu có biết hình ảnh con Cừu trong biểu tượng văn hóa là tượng trưng cho điều gì không? Là nô lệ! Là tầng lớp bị trị ngu đần và bạc nhược! Ở Việt Nam ta có Cừu không? Có nhưng không nhiều, rất hiếm, vì đấy là hàng “nhập ngoại” nên không thể là hình ảnh tượng trưng cho bất kỳ điều gì trong thực trạng văn hóa của người Việt Nam cả. Cậu dùng hình ảnh con Trâu, con Bò hoặc con Chó, con Lợn,... còn khả dĩ chấp nhận được phần nào... Đằng này lại là hình ảnh con Cừu. Hẳn cả một đàn Cừu. Đấy. Phi thực tế như thế mà cũng đưa vào thơ được. Mà... Sao lại “bạn rủ tôi về nhà nghe hát”? Sao không là bạn rủ tôi về nhà nghe nhạc cho nó sát với thực tế, mà cũng đậm đà chất thơ? Lại còn nửa đêm sợ tiếng thạch sùng, với những tiếng tờ lạch tạch? Rất yếu đuối, rất phi thực tế. Đàn ông đàn ang, ai lại sợ những con vật nhỏ bé, yếu ớt như con thạch sùng, con gián, con kiến? Đàn bà, con gái cũng không ai yếu đuối đến vậy. Đã thế, đêm hôm không lo ngủ, hoặc lo bảo nhau làm mấy cái chuyện sung sướng lại dựng bạn dậy để khoe nhiều tiền.... Kiểu... Rất chi là vô học. Ừ. Còn lan man, vô lý ở chỗ: Đang tả bạn thờ thẫn, man dại vì thèm tiền lại nhảy sang tả khuôn mặt bạn người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm với những khuôn nét vừa của thánh nhân, vừa của quỷ dữ. Xong, chốt câu “Tôi đã từng sợ ma” để hạ màn. Vớ vẩn. Sao lại sợ ma ở đây? Chả ăn nhập gì với nhau. Linh tinh. Dở oẹt. Tóm lại, đấy đếch phải là thơ. Là tản mạn mấy tiếng thở dài của mấy thằng dở người nửa đêm nửa hôm đếch biết làm gì nên rủ nhau làm mấy cái chuyện khác người, rõ ngớ ngẩn.”

Tôi nghĩ chắc cũng không ít bạn đọc có suy nghĩ giống “ông chú” nọ, vì thế, tôi cầm bút lan man đôi điều về “Lan man và...” của Đặng Xuân Xuyến, góp thêm một tiếng nói về cách cảm nhận khác như thế về thơ anh.

1.
Lan man và chuyện thằng bạn là bài thơ lạ, nhiều tâm trạng, viết theo trường phái siêu thực mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn làm mới thơ.

Để cảm được bài thơ này, phải lý giải bằng trực giác, bằng cảm xúc mạnh của nỗi lòng. Không thể giải thích thực tế bằng lối chú giải, phân tích tẩn mẩn, cụ thể như cách cảm nhận của các nhà thơ thủ cựu. Nếu đọc và cảm Lan man và chuyện thằng bạntheo cách thủ cựu thì bài thơ này sẽ “thật vớ vẩn”, thậm chí có người sẽ nhăn mặt: Văn nhảm chứ thơ phú gì…..

Khung cảnh của bài thơ là nhà “thằng bạn”, với thời gian là cả ngày và đêm nhưng cả bài thơ, ở cả 2 phân đoạn thời gian: ngày và đêm, đều được vẽ bằng gam màu sắc u ám, lạnh lẽo, rờn rợn vì ám đầy tử khí. Sự giả dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng bạn” được bóc trần nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian còn là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian đã chuyển sang đêm tối (khổ thơ II) thì cái mặt nạ của “thằng bạn” đã bị lột huỵch toẹt, trắng phớ, bằng những câu tưởng chẳng ăn nhập với cái hành động cũng tưởng như ngớ ngẩn của “thằng bạn”:
Đêm.
Bạn dựng tôi dậy khoe tiền nhiều
Lôi từ gầm giường những tờ tiền đỏ như rưới máu
Tôi không hỏi tiền nhiều từ đâu
Bạn tránh nhắc từ đâu tiền nhiều

Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” đã đủ để vạch trần tất cả: Đó là những đồng tiền dơ bẩn, những đồng tiền tội ác mà “thằng bạn” đã cướp giật từ những người lương thiện, nó thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và thậm chí cả máu, cả tính mạng của người lương thiện. Quá hiểu nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”, nhưng “bạn” vì nghĩ “tôi” ngờ nghệch, không biết nên tảng lờ, “tránh nhắc từ đâu tiền nhiều”. Giọng thơ cứ cà tang, cà tang, tưng tửng, tưng tửng mà kỳ thực lại rất tỉnh, rất lạnh, điểm suốt câu chuyện.

Bóng đêm thường đi liền với tội ác vì bóng đêm và tội ác là cặp bài trùng. Và trong bóng đêm, bộ mặt, bản chất của “thằng bạn” hiện lên thật rõ nét, vì “thằng bạn” với bóng đêm cũng chính là một cặp bài trùng. Hình ảnh “thằng bạn” lần nữa được nhà thơ đặc tả thật ti tiện, đáng sợ:
Cẩn thận
Vuốt vuốt những tờ tiền
Mắt lim dim
Bạn thả hồn vào khoảng không tối lịm

Và, trong cái “Quánh đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị tróc bỏ hết lớp “sơn” đã hiện ra rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ.
Đến đây, người đọc chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng “thằng bạn” của nhà thơ là ai!

2.
Lan man và chuyện đàn cừu cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự chú giải, phân tích theo lối thủ cựu:
Tôi đặt cược đời mình
Bằng nụ cười nhếch mép
Bằng vòm ngực lép kẹp
Bằng căn phòng mốc meo ướt nhép
Bằng cót két tiếng giường ọp ẹp
Bằng cả tiếng ngủ mơ chóp chép...
Tôi kỳ vọng quá nhiều!
Tôi đặt cược quá nhiều!
Hình như...

Đây là tứ thơ mới nhưng nếu cảm theo cách cảm xưa cũ thì rất dễ đưa ra lời phán: - Nhảm! Viết ba lăng nhăng! Nhưng rõ ràng đây là phân cảnh, là tâm thức, tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, lam lũ. Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội - đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình như”... Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng.
Nếu ở Lan man và chuyện thằng bạn là giọng thơ tưng tửng nhưng lạnh mà tỉnh thì ở Lan man và chuyện đàn cừu lại là giọng thơ trầm buồn, day dứt.
Nhà thơ tiếp tục câu chuyện của mình nhưng lại “lan man” sang chuyện khác, chuyện của đàn cừu:
Đàn cừu
Ngoài kia...
Cấu trúc bài thơ thay đổi.
Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi:
Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp
Cả đàn chết khiếp
Lẩy bẩy
Chen đẩy
Vào chuồng
Ông chủ oang oang
Bà chủ nhẹ nhàng
Đàn cừu
Im lặng
Cúi xuống
Nhai...

Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị thống trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.

Thật đúng như lời nhà thơ, chủ bút trang Văn Đàn Việt, cũng là người mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đề tặng bài thơ, đã viết trên trang facebook: “Tứ thơ mới. Cấu trúc mới. Ngôn ngữ mới cũ nương nhau, sắt đanh nghe chan chát, âm âm chất thời sự thật đáng thương! Chúc mừng tác giả!”
*.
Trên đây là những cảm nhận cá nhân của tôi về 2 bài thơ “Lan man và…”, sáng tác theo trường phái siêu thực của Đặng Xuân Xuyến.

Viết bài “Lan man...” và lan man cùng Đặng Xuân Xuyến, thực tình tôi không có ý muốn gì ngoài ý muốn góp thêm một cách cảm thơ khác với cách cảm nhận của “ông chú” nọ về 2 bài thơ “Lan man và…” của Đặng Xuân Xuyến, nên có điều gì sơ xuất, hoặc không đúng, không vừa ý, Đỗ Anh Tuyến tôi rất mong nhận được sự lượng thứ của quý bạn đọc.
*.
Thanh Nê, chiều 15 tháng 06.2017
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
READ MORE - “LAN MAN...” VÀ LAN MAN CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đỗ Anh Tuyến

ĐẾN QUẢNG TRỊ, VỀ LÀNG BÍCH KHÊ - Thạch Thảo Phạm Lê

Đến Quảng Trị, về làng Bích Khê

Thạch Thảo Phạm Lê

Nằm bên cạnh dòng sông Thạch Hãn, làng Bích Khê từ lâu được biết đến như một làng cổ trên đất Quảng Trị. Làng quê hiền hòa giữa vùng đồng bằng Triệu Phong qua mấy trăm năm tuổi vẫn bâng khuâng gợi cội nhớ nguồn.



Nhóm cổ nhạc làng Bích Khê.

Nói đến Bích Khê là nói đến một vùng quê con người trung hậu, can đảm, hiếu học, tài hoa. Chúng tôi đến thăm ngôi nhà ông Đỗ Văn Thiện, một nghệ nhân cổ nhạc đã ngoài 80 mươi tuổi.

Nghề nhạc Bích Khê lưu truyền đã được gần mười đời, được mọi người gần xa biết đến. Âm nhạc truyền thống đã thấm đẫm vào tình người, tình quê. Sau những thời gian hành nghề, họ ngồi lại với nhau ôn luyện từng bản nhạc để rèn luyện tay nghề ngày thêm thành thục.

Nhìn họ tập luyện và biểu diễn say sưa, người xem có thể cảm nhận lòng yêu nghề, tâm huyết của các nghệ nhân. Họ diễn xướng không chỉ bằng bàn tay điêu luyện, đôi tai nghề nghiệp mà còn bằng cả tấm lòng giữ lại những gì tinh túy của cha ông. Điều đó đã làm nên một bản sắc độc đáo của một  Bích Khê văn nghệ, tài hoa.

Điều đáng nói là trong cuộc sống hiện đại hôm nay, nghề nhạc cổ truyền từ chiếc nôi này vẫn luôn được gìn giữ, thăng hoa vì thoải mái hành nghề, sống được nhờ nghề. Ông Đỗ Văn Thiện hào hứng kể về nghiệp tổ lưu truyền cho đến ngày nay được cháu con gìn giữ làm rạng danh tổ tiên, làng mạc.

Nhưng nói gì thì nói không thể không nhắc đến họ Hoàng Bích Khê. Họ tộc này quả thực đã đóng góp nhiều cho quê hương đất nước. Ngày xưa họ này nổi danh khoa bảng, học hành giỏi giang, đỗ đạt làm quan đến chức thượng thư cũng vào hàng khanh tướng.

Như trường hợp gia tộc ông Hoàng Hữu Xứng. Sau này những tên tuổi lừng danh trong văn học nghệ thuật như nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông Hoàng An, trưởng tộc họ Hoàng Bích Khê tâm sự :”Cho dù con cháu mỗi người mỗi nghề nhưng luôn biết nhớ về tổ tiên, nhớ về bề trên trong mọi sinh hoạt của họ tộc. Đó là điều quý giá được lưu truyền từ xưa đến nay.”

Chính họ trong cuộc sống hàng ngày, trong những câu chuyện của bà con lối xóm vẫn được người dân làng Bích Khê trân trọng và tôn vinh đúng mực, tự hào về một vẻ đẹp văn hóa của làng quê.

Ông Đỗ Xuân Hiệu, chi hội trưởng chi hội người cao tuổi Bích Khê thay mặt dân làng ghi nhận họ Hoàng làng Bích Khê là một dòng dõi có truyền thống học hành, làm được nhiều điều có ích cho làng, cho nước. Đó là cống hiến đáng kể của họ Hoàng Bích Khê từ ngày xưa cho đến ngày nay.

Họ Hoàng như đã nói có tiếng khoa cử. Ông Hoàng Hữu Bính  từng đỗ tiến sĩ hoàng giáp dưới triều vua Thành Thái năm 1889. Đang làm quan tuần phủ, chán ghét giặc Pháp nghênh ngang, ông từ quan về làm việc ở Quốc tử giám.

Được một thời gian thì cũng bỏ về làng sống chờ đợi thời cơ kháng Pháp. Bích Khê lúc ấy được coi là vườn đào tụ nghĩa tập hợp những người chống giặc ngoại xâm.

Không may ông bị bệnh rồi mất tại quê nhà. Còn ông Hoàng Hữu Xứng học hành đỗ đạt làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lễ, giám khảo các kỳ thi hương, thi hội.

Trải qua những lận đận quan trường khi vận nước rối ren, ông vẫn được nhìn nhận là một ông quan mẫn cán, thanh liêm, nặng lòng với dân với nước. Ông để lại cho đời sau cuốn sách quan trọng về bản đồ đất nước: “Đại Nam quốc cương giới vựng biên” do ông đứng ra tổ chức biên soạn và Nghĩa Trũng Đàn, một nghĩa cử sáng ngời sau hơn cả trăm năm.

Nghĩa Trũng Đàn mới vừa nhắc đến là  một nghĩa trang đặc biệt do ông Hoàng Hữu Xứng và gia đình tự bỏ tiền mua đất rồi quy tập những thi hài không nơi nương tựa.

Đó là nơi yên nghỉ của hàng ngàn linh hồn phiêu dạt tại làng Thạch Hãn gần Thành cổ Quảng Trị. Việc nghĩa này thật đáng trân trọng xiết bao. Qua hơn một thế kỷ binh đao tao loạn, nghĩa trang này đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử, được bà con Bích Khê đến khói hương, tưởng vọng những người thiên cổ.

Những dịp lễ tết, những ngày đại sự Nghĩa Trũng Đàn đã đón những khách gần xa, để cho tâm nguyện vị tha bừng sáng, lan tỏa một tinh thần, đạo lý Việt Nam: thương người như thể thương thân trong tình nghĩa đồng bào. Còn đây văn bia do hậu duệ Hoàng Phủ Ngọc Tường phụng soạn ngợi ca tấm lòng của tiền nhân đối với người đã về với cát bụi. Những tấm lòng nhân như thế dù khởi thủy từ xưa vẫn sẽ còn lại mãi mãi với muôn sau.

Đạo nghĩa mà làng Bích Khê dày công tô bồi và trong đó họ Hoàng cũng góp phần bao đời vun đắp hiển hiện trong những nhà thờ họ, thờ chi của họ này. Trước một ngôi nhà thờ Hoàng tộc Bích Khê có hai câu đối nhắc nhở con cháu và mọi người về lẽ sống : “Tri túc tâm thường lạc. Vô cầu phẩm tự cao”, tạm dịch: Biết đủ tâm sẽ vui vẻ, không cầu cạnh, phẩm giá mình tự cao. Thật đáng để đời nay suy ngẫm.

Ông Hoàng Hữu Cương hậu duệ Hoàng tộc làng Bích Khê tâm đắc với chuyện họ Hoàng dù khi còn hàn vi hay thành đạt luôn lấy đạo đức làm đầu. Đó chính là vốn quý của dòng họ qua mấy trăm năm.

Dạo quanh làng sẽ thấy dấu ấn của họ Hoàng làng Bích Khê. Hầu như vẫn còn nhiều hình ảnh và tư liệu được lưu giữ ở những nơi thờ phụng trang nghiêm.

Người đến đây sẽ có dịp hiểu thêm về một dòng tộc từ xưa đến nay nổi danh trong thiên hạ. Hầu như đời nào từ cổ chí kim họ này cũng có người thành đạt và quan trọng hơn là có đóng góp cho quê hương đất nước.

Qua hàng trăm năm thế gian biến cải, dòng họ này vẫn giữ được phong độ của mình góp nhân tài vật lực vào công cuộc hộ quốc an dân. Dù làm ruộng hay làm quan, dù ở làng hay xa xứ ai nấy đều giữ được gia phong, tự hào về truyền thống dòng họ của mình ngõ hầu nuôi chí lập thân, lập nghiệp. Đây chính là điểm đặc sắc của Hoàng tộc Bích Khê.

Về Bích Khê không thể không đến thăm nhà lưu niệm bà Hoàng Thị Ái, một bậc tiền bối cách mạng, suốt đời tận hiến cho Tổ quốc, nhân dân được đồng bào, trong đó có các Tổng Bí thư Đảng như Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu dành cho nhiều tình cảm đặc biệt.

Ngày bà tạ thế, dù được mai táng ở nghĩa trang Mai Dịch tận thủ đô Hà Nội nhưng con cháu họ Hoàng và dân làng Bích Khê vẫn nghiêng mình tưởng nhớ một người con tận trung chí hiếu của quê hương Quảng Trị. Sự tưởng niệm những người yêu nước như Hoàng Thị Ái, Hoàng Hữu Chấp sẽ vĩnh hằng ở  làng quê  như Bích Khê và không chỉ Bích Khê.


    Thạch Thảo Phạm Lê
READ MORE - ĐẾN QUẢNG TRỊ, VỀ LÀNG BÍCH KHÊ - Thạch Thảo Phạm Lê