Tác giả Phạm Đức Nhì
TẢN MẠN VỀ VAI TRÒ CỦA Ý TỨ TRONG THƠ
Trên đường tìm học rồi nghiên cứu văn chương tôi may mắn được quen biết 2 ông giáo sư đại học Mỹ; một ông là thầy, ông kia là đồng nghiệp của thầy; một ông dạy Creative Writing (Sáng Tác), ông kia chuyên về Literature Review (Phê Bình Văn Học), một ông có bằng Master, ông kia là Tiến Sĩ Văn Chương và đều là thi sĩ. Số là cách đây gần 20 năm, trong một bài essay (luận văn) của lớp English 2 tôi đã đưa bài thơ của mình (đã dịch ra Anh ngữ) vào để đối chiếu với bài thơ For My Daughter (Cho Con Gái Tôi) của Weldon Kees. Bài luận văn của tôi được điểm A+ và sau đó tôi được ông thầy và đồng nghiệp của ông xem là thành viên trong loài “động vật quý hiếm” (1), thỉnh thoảng được cùng – lúc ông này, lúc ông kia - uống cà phê, ăn bánh ngọt và tán chuyện văn chương.
Ông thầy thì dặn tôi “Viết Cái Gì không quan trọng lắm; tài năng của tác giả một bài thơ được đánh giá ở chỗ ông (bà) ta Viết Thế Nào. Trong sáng tác thơ ca How quan trọng hơn What gấp trăm lần. Từ kỹ thuật thơ như ngôn từ, hình tượng, biện pháp tu từ, thế trận chữ nghĩa đến cảm xúc, hồn thơ tất cả đều được gói trọn trong chữ How. Nếu cứ ngồi chờ đến khi có được ý tưởng hoàn toàn mới lạ, độc đáo mới viết thì cả đời liệu viết được mấy bài thơ?”
Còn ông kia, lúc ngồi riêng với tôi hay nhắc nhở: “Trong thơ đừng coi thường What; ý tưởng mới lạ làm tăng giá trị của bài thơ lên rất nhiều; nếu không được là người tiên phong dọ dẫm những bước chân khai phá thì chí ít cũng cố gắng đừng đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”
Tôi nhủ thầm: “Bàn về một tiêu chí quan trọng của thơ mà ông này nói đàng Đông, ông kia nói đàng Tây thì biết nghe ông nào bây giờ?”
Đối với thơ Việt Nam What gồm cả ý và tứ mà người đọc thơ rất dễ hiểu lầm hoặc lẫn lộn. Cho nên trong bài viết này tôi sẽ cố gắng làm rõ vai trò không những của ý mà còn của tứ trong thơ. Để đi đến mục tiêu đó tôi sẽ chọn một số bài thơ quen thuộc với những người thường đến với sân chơi thi ca (có vài bài tôi đã viết lời bình) để vừa minh họa vừa dẫn chứng cho những suy nghĩ, nhận định của mình.
Phân biệt Ý và Tứ
Tứ: Cách để tiếp cận, diễn đạt ý. (nghĩa trên văn bản hoặc nghĩa đen của bài thơ)
Ý: Điều tác giả muốn nói đến, (ngụ ý hoặc nghĩa bóng)
Khi tác giả chọn cách nói trực tiếp, nói thẳng vảo điều muốn nói, bài thơ có ý và tứ giống nhau. Ý là tứ, tứ là ý, ý với tứ là một. Ở đây không có ngụ ý hoặc nghĩa bóng (không có phép ẩn dụ)
Thí dụ:
Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác:
Ý và Tứ là một: Hào khí của một sĩ phu trước cảnh đất nước điêu linh.
Tống Biệt Hành của Thâm Tâm:
Ý và Tứ là một: Tâm trạng của con người trong một cuộc chia ly
Khi tác giả không muốn nói trực tiếp, không muốn nói thẳng vào điều muốn nói mà mượn một hình ảnh khác, một sự kiện khác để thố lộ lòng mình, bài thơ có ý và tứ khác nhau. Ý là điều muốn nói; tứ là hình ảnh mượn để thố lộ lòng mình. Tác giả đã áp dụng thủ pháp Show, Not Tell hoặc phép ẩn dụ toàn bài.
Thí dụ:
Ông Đồ của Vũ Đình Liên
Tứ: Ông Đồ ngồi bên phố viết câu đối thuê cho khách du xuân. Nay xuân đến, không thấy ông đồ nữa, nhiều người tiếc nhớ.
Ý: Tác giả muốn nói đến nền nho học đang lụi tàn.
TẤM BẢN ĐỒ VẼ SAI
Chọn lô đất tốt xây được ngôi nhà mới
ông mở tiệc mừng tân gia
“Đến chơi! Hay lắm!”
thư ông viết
mời bằng hữu gần xa
Ngay giữa trang thư một bản đồ
dọc ngang tự tay ông vẽ
và lời chỉ dẫn cặn kẽ
đường đi nước bước đến cuộc vui
Giờ hẹn đến rồi
chưa thấy bóng khách mời nào xuất hiện
đồ ăn nguội lạnh
bàn tiệc vẫn vắng tanh
Vài ngày sau
ông nhận được mấy thư trả lời
trong thư chỉ vỏn vẹn:
“Xin lỗi!
Không tìm thấy nhà.”
(Phạm Đức Nhì)
Tứ: tấm bản đồ vẽ sai, khách bị lạc, không tìm thấy nhà.
Ý: Nếu chức năng truyền thông của bài thơ thất bại, người đọc sẽ (đi lạc) không hiểu tác giả nói gì qua bài thơ, không có nhịp cầu thông cảm giữa tác giả và người đọc.
Trước hết là 3 bài thơ của Tú Xương cùng viết về một đề tài:
CÁI HỌC NHÀ NHO
Cái học nhà nho đã hỏng rồi,
Mười người đi học, chín người thôi .
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thầy khóa tư lương nhấp nhỏm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà phải cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi .
Tôi đâu dám mỉa làng tôi nhỉ?
Trình có quan tiên thứ chỉ tôi.
CHỮ NHO
Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!
ĐỔI THI
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi!
Dẫu không bia đá còn bia miệng
Vứt bút lông đi, giắt bút chì.
Theo tôi, làm thơ mà sử dụng cái phương cách kể lại, nói thẳng, nói trực tiếp những suy nghĩ trong đầu mình như Trần Tế Xương trong 3 bài trên là hạ sách. Ở đây ý và tứ giống nhau: tâm trạng ngao ngán, chán chường của tác giả trước sự suy tàn của nền Nho học. Trong những bài thơ này cái vẻ lung linh sương khói, mờ mờ ảo ảo - một trong những nét đẹp của thơ ca – thường vắng bóng, hoặc nếu có thì cũng rất ít (vì chỉ phát xuất từ ngôn từ). Nó rõ ràng như một “bài toán văn chương” nên người đọc không có cơ hội vận dụng khả năng liên tưởng của mình, không có cơ hội dùng đến thứ vốn quý của người đọc thơ là cái “tài cảm nhận thơ” của mình. Trong khung cảnh ấy, môi trường ấy, người sính thơ, sành thơ và người dốt thơ, mù thơ hình như cũng chẳng khác gì nhau mấy tý. Chính vì thế trong văn chương, đặc biệt là thơ, thủ pháp Show, Not Tell, đưa ra những sự kiện để người đọc tự hiểu ra, tự cảm nhận điều tác giả muốn nói đến, hoặc cao hơn nữa là phép ẩn dụ, rất được coi trọng.
Đến Ông Đồ của Vũ Đình Liên
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Cũng cái ý về sự lụi tàn của nền Nho học nhưng bài thơ Ông Đồ bề thế hơn, đạo quân chữ nghĩa đông hơn, và đặc biệt, thủ pháp Show, Not Tell đã đến mức tuyệt luân. Hơn thế nữa, tác giả đã ra lệnh cho các con chữ của mình học phép tàng hình (khi đọc thì chữ hiện ra, khi đọc xong thì chữ biến mất) để hóa thân thành những bức tranh – đúng ra là một truyện bằng tranh - sống động. Đây là trình độ thượng thừa trong thơ ca; ở đó chữ nghĩa đã mất biệt, lý trí bị đuổi việc, không còn chõ miệng vào chỗ này, chỗ kia bàn tính thiệt hơn. Người đọc thả hồn theo dòng chữ như có phép tàng hình để thưởng ngoạn những bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Rất tiếc Những Bức Tranh Thơ của Ông Đồ đã có một chỗ hoen ố; đó là 2 câu cuối của bài thơ:
“Những người muôn năm cũ
hồn ở đâu bây giờ”
Nhiều nhà phê bình đã khen 2 câu thơ này hết lời.
Riêng tôi, về ý tứ thì đồng ý với họ, nhưng xét về Kỹ Thuật Thơ thì 2 câu ấy đã làm giảm giá trị của bài thơ rất nhiều. Những con chữ đột nhiên mất phép tàng hình và nổi lên cồm cộm. Bức tranh cuối - nửa tranh, nửa chữ - trông rất mất vẻ mỹ thuật. Đưa 2 câu ấy vào bài thơ tác giả đã để vuột mất chiếc huy chương vàng - giải thưởng cao quý nhất trong thơ ca.
Nếu không có cái lỗi ấy Ông Đồ không những đã có thể đẩy Sông Lấp qua một bên để giành vị trí “bài thơ tiêu biểu, chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam: giai đoạn cáo chung của nền văn học chữ Nho”, mà hơn thế nữa, sẽ là một viên ngọc quý của thơ ca, không những chỉ đẹp lộng lẫy, chói lọi trên thi đàn Việt Nam mà ngay cả khi đứng trước kho tàng văn chương Trung quốc – nó cũng không chịu nhường một bước. Chắc nhiều người yêu thơ, thông hiểu chữ Hán đều biết hai câu thơ được coi là niềm tự hào của thi ca Trung Quốc:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
Ráng chiều rơi xuống, với cánh cò đơn chiếc cùng bay
Làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc
(Trần Trọng San dịch)
vì đó là một bức tranh thơ tuyệt đẹp.
Tôi tra cứu thì được biết người ta đã bới tung bài Đằng Vương Các Tự (dài trên trăm câu) nổi tiếng của Vương Bột (2) mới tuyển chọn được bức tranh thơ ấy. Trong khi Ông Đồ của Vũ Đình Liên là cả một bộ truyện lịch sử bằng tranh sinh động. Đọc Đằng Vương Cát Tự độc giả phải “đãi cát tìm vàng”, còn với Ông Đồ họ sẽ thấy trước mắt mình nằm xếp lớp những thỏi vàng óng ánh.
SÔNG LẤP
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Trần Tế Xương)
Phép ẩn dụ trong Sông Lấp rất kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng không thấy được, cảm được ẩn ý của tác giả. Có thể nói Sông Lấp không phải là một đoàn quân trùng trùng, điệp điệp, nhưng lại có bề thế của một mặt trận, một điệp vụ tình báo siêu đẳng, đưa được những điệp viên thượng thặng, bí mật nằm giữa bộ chỉ huy của quân địch. Phép ẩn dụ ấy được kết hợp một cách tài tình với thủ pháp “Show, not Tell”, tạo ra một chuỗi những chiếc cầu liên tưởng, dẫn người đọc đi từ hình tượng này đến hình tượng khác. Từ tiếng ếch kêu, trong hoàn cảnh riêng của mình, trong tâm tình riêng của mình, nhà thơ “tưởng tiếng ai gọi đò”. Đây là một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông không bộc bạch, bày tỏ thì người đọc khó có thể đoán ra được. Biết thế nên ông đã đưa tay dắt chúng ta bước lên chiếc cầu đầu tiên. Đến 2 chiếc cầu liên tưởng kế tiếp thì người đọc đã có thể tự mình qua được; từ tiếng gọi đò nhớ bến đò ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp. Khi từ con Sông Lấp đặt chân lên chiếc cầu sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử, văn học sử, cộng với một chút trực giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng sâu kín của nhà thơ: nhớ thương, tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt. Và người đọc sẽ tròn xoe mắt “À” lên một tiếng khoái trá. (3)
Ngoài ra Sông lấp còn có những ưu điểm khác như thế trận chữ nghĩa chặt chẽ, rất nhiều chữ ở vị trí đắc địa, bài thơ không lộ một chút sơ hở. Chính vì thế Sông Lấp được coi là bài thơ tiêu biểu cho tâm tình hoài cổ hoặc là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử - giai đoạn suy tàn của nền nho học.
SHOW, NOT TELL Và
GIẤC MƠ ANH LÁI ĐÒ
1/ Năm xưa chở chiếc thuyền này
Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều2/ Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
“Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
Tưng bừng vua mở khoa thi,
Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò.”3/ Đồn rằng đám cưới cô to Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu Nhà gái ăn chín nghìn cau Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn…4/ Lang thang tôi dạm bán thuyền
Có người giả chín quan tiền, lại thôi!
(Nguyễn Bính)
Bài thơ có ý và tứ giống nhau: vì nghèo nên anh lái đò đành nhìn người yêu đi lấy chồng rồi trở về con đò của mình với mối tình vô vọng. Đây là đề tài muôn thuở, cũ rich như “chuyện thường ngày ở huyện”, là con đường đã mòn dấu chân người, nhưng nhờ thủ pháp Show, Not Tell được áp dụng gần như hoàn hảo (chỉ không khéo ở chữ “to” câu 9 - xin đọc GMALĐ hay Mối Tình Vô Vọng, Phạm Đức Nhì) nên vẫn được người đọc yêu thích và trở thành một trong những bài thơ hay của thời tiền chiến.
Sau đây là bài thơ GMALĐ được tôi tóm lại dưới dạng Tell để hy vọng người đọc nhận ra sự khác biệt.
1/ Đưa đò nên quen biết nàng
2/ dần dà tôi đã yêu nàng thiết tha
3/ nhìn nàng đi lấy đại gia
4/ tôi nghẻo nên vẫn con đò cô đơn
Mỗi câu ở phần dưới là thu gọn của một đoạn ở phần trên. Ở phần dưới anh lái đò chỉ sơ lược, tóm tắt kể lại (Tell) câu chuyện lòng mình trong khi ở phần trên anh dàn trải (Show) tâm trạng một cách chi tiết hơn, tự đặt mình vào một tình huống cụ thể, thực tế và sống động, cung cấp cho người đọc những thông tin cần thiết để họ tự hiểu rồi thông cảm với hoàn cảnh và tâm tình của anh. Bài thơ càng mang nhiều tính cách Show thì càng thật, càng dễ cảm, giá trị càng cao.
Qua bài thơ và phần phân tích trên đây tôi nhận ra rằng: “Dù ý, tứ thơ đã cũ mòn nhưng nếu tay nghề của thi sĩ cao, có thể sử dụng điêu luyện một thủ pháp nghệ thuật nào đó, và nếu được viết trong lúc tràn đầy thi hứng thì vẫn có cơ hội tặng cho đời một bài thơ hay.” Lời nhắc nhở của ông bạn Mỹ “Viết Cái Gì không quan trọng lắm; tài năng của tác giả một bài thơ được đánh giá ở chỗ ông (bà) ta Viết Như Thế Nào. Trong sáng tác thơ ca How quan trọng hơn What gấp trăm lần.” nghe cũng có lý đấy chứ!
Mấy Bài Thơ Của TTKh
Vào thời TTKh viết Hai Sắc Hoa Ti Gôn (và 3 bài thơ khác) con người VN còn sống bó buộc trong cái khung của lễ giáo phong kiến: “Liệt nữ bất canh nhị phu” nghĩa là gái chính chuyên chỉ có một chồng. Sự chung thủy là một đức tính, một nguyên tắc ứng xử - chỉ áp dụng cho phái nữ - được hết mực ca ngợi. Đã “đeo gông vào cổ” rối mà còn “tơ tưởng đến ông láng giềng” hay bất cứ người đàn ông nào khác là đã “ngoại tình trong tư tưởng”, là đã phạm một điều đại cấm kỵ, bị xóm làng nguyền rủa, xã hội lên án. Những bài thơ của TTKh đã đạp đổ cái luật lệ khắt khe bất nhân ấy, đã gột rửa lớp son phấn giả tạo của Khổng Giáo trên thân thể người phụ nữ, để lộ ra trước xã hội, trước cuộc đời một Con Người có trái tim, biết yêu thương, nhung nhớ, biết khổ đau. Ý tưởng của mấy bài thơ, lúc ấy, được coi là vô cùng táo bạo, không những thoát khỏi mà còn chảy ngược với dòng thơ phải đạo.
Sau đây là vài đoạn tiêu biểu trong mấy bài thơ nổi tiếng của bà:
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người
(Hai Sắc Hoa Ti Gôn)
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời.
(Đan Áo Cho Chồng)
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
(Bài Thơ Thứ Nhất)
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh, có một người.
(Bài Thơ Cuối Cùng)
Trước TTKh chắc cũng có nhiều bậc thức giả đã nhận ra khía cạnh bất nhân trong cái gọi là “tam tòng tứ đức” của đạo Khổng - đã ép buộc nhiều phụ nữ phải gạt nước mắt chia tay người mình hết lòng thương mến, để vì lễ giáo, vì môn đăng hộ đối, vì lệnh của song thân, phải lấy, rồi ăn ở suốt đời với người mình không hề yêu thương - nhưng họ hoặc không dám nói ra hoặc chỉ than thở lén lút và những lời than thở ấy cũng thoảng bay theo gió. Tuy vậy, thi đàn nước Việt có ít nhất 2 tác phẩm đề cập đến sự coi thường tình cảm của phụ nữ trong hôn nhân vẫn còn được lưu truyền:
Cung Oán Ngâm Khúc
Theo Wikipedia thì “Cung oán ngâm khúc là tiếng thét oán hờn của một trang nữ lưu tố cáo và phản kháng chế độ phong kiếnphong kiến đã đối xử phũ phàng tàn ác đối với phẩm giá và những tình cảm trong sáng, cao quý của người phụ nữ. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm của những đặc quyền phong kiến ích kỷ và vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành đồ chơi để thoả mãn thú tính hoang dâm của mình, rồi bị ném đi không thương tiếc vào lãng quên. Nguyễn Gia Thiều là một văn hào uyên thâm và chứa chan tinh thần nhân đạo đã thấu hiểu nỗi lòng của người cung nữ, đã dồn hết tâm huyết và văn tài để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn xé lòng về cuộc đời nàng.”
“Ngôn ngữ trong Cung oán ngâm khúc hết sức tài hoa, đài các, tinh xác và nhuần nhị … Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm điệu góc cạnh và dữ dội, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào đá gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ:
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió
Áo vũ kia lấp ló trong trăng
hay
Thân này uốn éo vì duyên
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời!”(4)
Tôi có mấy nhận xét sau đây:
1/ Đối tượng của ý thơ nhắm vào những cung nữ trong cung đình, chỉ là một bộ phận nhỏ trong cộng đồng phụ nữ của dân tộc.
2/Thể thơ song thất lục bát đã không còn được ưa thích và ngày càng ít xuất hiện trên thi đàn.
3/ Khi tôi viết những dòng chữ này (2016) chế độ phong kiến đã cáo chung từ lâu. Không còn tam cung lục viện, không còn hàng ngàn cung phi, mỹ nữ, có người phải lén rải cỏ non trước cửa phòng với ước mơ xe dê của vua ngừng lại và tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình được ngài đoái hoài đến. Ý tưởng chính của tác phẩm - “Tiếng thét oán hờn của trang nữ lưu” - đã không còn tính thời sự, không còn thôi thúc, không gây được ấn tượng mạnh như thời Nguyễn Gia Thiều.
Có lẽ vì thế mà CONK dù vẫn có vị trí trong văn học sử, giá trị và ảnh hưởng của nó phải xếp phía sau mấy bài thơ của TTKh.
Cảnh Làm Lẽ
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa, hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần, có cũng không ...
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
(Hồ Xuân Hương)
Đối tượng của Cảnh Làm Lẽ cũng chỉ là một thiểu số phụ nữ - vì một lý do nào đó - chấp nhận làm lẽ. Thể thơ đường luật chật hẹp quá, gò bó quá nên chỉ mới chạm vào lớp vỏ ngoài của nỗi khổ phải “lấy chồng chung”. Bài thơ gợi được mối thương cảm nơi người đọc nhưng mối thương cảm ấy không lớn, không sâu sắc.
Trong khi đó đối tượng của mấy bài thơ của TTKh là toàn thể giới phụ nữ. Độ phủ sóng ở đây lớn hơn gấp bội. Thêm vào đó hôn nhân ép buộc kiểu “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” đang xảy ra trước mắt mọi người, đang là một vấn nạn lớn của xã hội nên mấy bài thơ ấy – có thể nói mà không sợ bị cho là quá lời – đã góp đặt nền móng cho việc đạp đổ lễ giáo phong kiến của Khổng Tử, làm cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ sau này.
Thể thơ mới phóng khoáng, tự do hơn nên TTKh đã trải tâm sự của mình một cách thoải mái, đầy đủ, sâu sắc. Hơn nữa đội quân chữ nghĩa của bà thế trận chặt chẽ hơn, chia thành 4 đạo quân bao kín trận địa (4 bài thơ) và đã chinh phục hoàn toàn tim óc của người đọc thời bấy giờ.
Dưới cái nhìn của thơ ca hiện đại thì mấy bài thơ của TTKh – dù nhỉnh hơn CONK và Cảnh Làm Lẽ - chỉ ở mức khá hoặc trên khá một chút - nhưng nhờ có ý tưởng nhân bản và táo bạo – đòi lại quyền làm chủ trái tim mình cho toàn thể phụ nữ - nên chúng, tuy chưa phải là tuyệt tác, vẫn có một vị trí đặc biệt trong văn học sử, trở thành cột mốc quan trọng trên chặng đường tiến hóa của dân tộc.
Đến đây tôi lại nhớ ông bạn Mỹ. Câu nói của ông ““Trong thơ đừng coi thường What; ý tưởng mới lạ làm tăng giá trị của bài thơ lên rất nhiều; nếu không được là người tiên phong dọ dẫm những bước chân khai phá thì chí ít cũng cố gắng đừng đi vào con đường đã có hàng triệu dấu giầy”
trong trường hợp này cũng rất có lý.
Chăn Trâu Đốt Lửa
Chăn trâu đốt lửa trên đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả chiều thành tro.
(Đồng Đức Bốn)
Bài thơ ngắn nhưng tứ thơ rất hay: mê thả diều để củ khoai nướng, có thể là bữa ăn đạm bạc của trẻ chăn trâu, cháy thành tro. Khung cảnh rất thực, rất dân dã của bài thơ khiến tứ thơ dễ bắt, người đọc có thể hiểu ngay. Nhưng ngụ ý của tác giả thì hơi có vẻ mờ mờ ảo ảo, bềnh bồng, lung linh sương khói đòi hỏi một trực giác nhạy bén, một khả năng liên tưởng mạnh mẽ và chính xác để cảm nhận. Sau đây xin trích dẫn liên tưởng của nhà bình thơ Đức Thọ:
“Trẻ chăn trâu mải mê theo đuổi một con diều (cái đó là tất yếu sẽ diễn ra với trẻ chăn trâu). Nhưng trong cuộc sống ngày nay có biết bao nhiêu cá thể cũng mải mê theo đuổi một “con diều”. Một con diều không hơn không kém và đúng nghĩa là một thú vui của trẻ chăn trâu, nhưng còn “con diều” của những cá thể chúng ta thì nó nhiều vô kể. Mải mê vậy để một củ khoai nướng đốt cả chiều thành tro thì quả là một kết cục rất thực đời. Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý và mải mê… v.v. và v.v.…” (5)
Đúng là bài thơ có ý tưởng rất tuyệt, tuyệt đến mức ông Đức Thọ đã đưa nó lên hàng “triết lý nhân sinh”. Tôi nể phục và đồng ý với việc nâng cấp ấy nhưng lại có ý kiến rất khác với ông về những thí dụ minh họa.
Cái chuyện “Mải mê nghe điện thoại khi đang điều khiển xe dẫn đến mất mạng sống. ” hoặc “Mải mê theo đuổi ánh kim của tiền bạc dẫn đến tan cửa nát nhà hoặc lâm vào trong vòng lao lý” làm sao có thể cho là một “triết lý nhân sinh” được. Đó chỉ là một sự dại dột và bướng bỉnh đến độ coi thường mạng sống hoặc tham lam đến độ mờ mắt, coi thường đạo lý và pháp luật, để rồi trong một phút bất cẩn gây tai nạn, hoặc đổ bể sự việc – không những mất mạng mình mà còn mang khổ ải đến cho bao nhiêu người khác. Đó không phải “triết lý” mà là cái dại, cái tham làm hại cái thân. Nếu hiểu như ông Đức Thọ thì bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa đã đi vào quên lãng từ lâu rồi chứ đâu còn được lưu truyền đến ngày hôm nay để người này nguời kia tham gia lý sự.
Có một cách hiểu khác có vẻ có lý hơn là “Hãy sống thực tế, đừng mơ mộng viển vông”. Miền bắc Việt Nam vào những năm ĐĐB viết CTĐL là một vùng “người khôn của khó”, quần quật suốt ngày kiếm đủ cơm khoai dưa mắm cho gia đình đã là may mắn lắm rồi. Hơn nữa, trận đói năm Ất Dậu (1945) là một cơn ác mộng, một nỗi kinh hoàng lúc nào cũng ám ảnh tâm trí mỗi người. Nắm gạo, củ khoai, con cá, lá rau là những món thiết thực, gần gũi với mọi gia đình. Những câu “Có thực mới vực được đạo” hay “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông lại nhất nông nhì sĩ” đã là những câu nói cửa miệng nhắc nhở con cháu trong nhà – hãy bước đi bằng đôi chân chạm đất chứ đừng có bay lơ lửng trên không kẻo lại “giật mình tỉnh dậy thấy mình đói meo”. Nhưng nếu hiểu theo cách này thì ý tưởng trong bài thơ của ĐĐB có gì đặc biệt đâu, cũng chỉ lập lại những điều mà người dân đồng bằng Bắc Bộ đã nhắc nhở nhau, dặn dò nhau đến nhàm đến chán.
Theo tôi, ngụ ý của Đồng Đức Bốn như sau:
Con người nhiều khi chạy theo những cái viển vông, cao tít trên trời mà quên đi những thứ thiết thực, gắn bó với cuộc sống, ngay trên mặt đất. Nhưng cũng chẳng có gì nuối tiếc vì những thứ viển vông, cao tít đó chính là thức ăn cho tinh thần, cho phần hồn của con người; đó chính là niềm vui, hạnh phúc mà vật chất không thể tạo ra được.
Ở môi trường xã hội mà cái đói luôn là nỗi ám ảnh - dầm mưa dãi nắng từ sáng tinh mơ đến tối mịt mới có được 2 bữa ăn - con người lắm khi bị kéo xuống rất gần với con vật. Vâng ở cái môi trường đó mà dám “coi thường” củ khoai (mặc cho nó cháy thành tro) để đánh đổi lấy một niềm vui tinh thần, được cùng với con diều bay bổng trên bầu trời chiều thì theo tôi, đó là hành vi vô cùng dũng cảm. Ở đây cũng có một chút vô tâm, bất cẩn và sau đó là một chút tiếc rẻ khi bụng – vì thiếu củ khoai – đã bắt đầu cồn cào. Nhưng việc đổi củ khoai lấy những giây phút sảng khoái, hạnh phúc trên cánh đồng vẫn là một thương vụ có lời. Cậu bé trong thơ ĐĐB tối hôm ấy có thể bị lên giường ngủ với cái bụng trống không nhưng chắc là miệng sẽ mỉm cười và có một giấc mơ thật đẹp. Cậu bé đã dám “quên” củ khoai, chấp nhận chịu đói để được hưởng những giây phút sảng khoái trong tâm hồn. ĐĐB đã cho cậu bé chăn trâu bước ra khỏi “cái trại mà ở đó con người gần ngang hàng với con vật”, lùa trâu về chuồng trên con đường làng mà lòng tràn ngập niềm vui và tự hào vì thấy hồn mình đang bay lên một tầm cao mới, tầm cao của CON NGƯỜI được viết hoa thật đẹp. Ý tưởng của bài thơ tuyệt vời là ở chỗ ấy. Và triết lý nhân sinh cũng là ở chỗ ấy.
Rất tiếc ĐĐB đã phạm một lỗi nặng trong kỹ thuật thơ ca là dung dưỡng một câu thơ nội gián. Câu “rạ rơm thì ít gió đông thì nhiều” tuy không tệ hại, mâu thuẫn, câu sau chửi cha câu trước như bài thơ:
“Trên đường có nhị chàng trai
Đầu râu tóc bạc cỡi hai ngựa hồng
Ngựa thì trắng toát như bông
Giữa đường cát trắng bụi hồng tung bay”
nhưng đã làm mạch thơ, con thuyền tứ thơ - đang băng băng chảy thì bị một dòng đối lưu cản lại – tròng trành như muốn vỡ. Cuối cùng nhờ tài lèo lái của tài công, thuyền cũng trôi tới bờ, tới bến nhưng đã bị tổn thương nặng.
Có 2 cách phát biểu về bài thơ Chăn Trâu Đốt Lửa:
1/ Nếu không có phần ý và tứ tuyệt vời như thế thì với cái lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” trong bài thơ chỉ có 4 câu người đọc đã có thể gạt bài thơ qua một bên để đọc những bài thơ khác. Và bài thơ sẽ hoàn toàn đi vào quên lãng.
2/ Nếu ĐĐB không phạm lỗi “dung dưỡng một câu thơ nội gián” thì với phần ý và tứ thơ tuyệt vời như thế Chăn Trâu Đốt Lửa chắc sẽ chiếm một vị trí trang trọng trong kho tàng thơ ca Việt Nam và theo tôi, còn cao hơn Sông Lấp của Tú Xương một bậc.
Ngoài ra, qua CTĐL mối tương quan giữa tác giả, ý, tứ và độc giả cũng hiện ra rõ ràng:
Tác giả đã hoàn thành chức năng truyền thông của bài thơ, tạo được nhịp cầu để người đọc ai cũng có thể “bắt” được, đến được với tứ thơ, hiểu được nghĩa đen (trên văn bản) của bài thơ và hiểu giống nhau (không thể có chuyện người hiểu tứ thơ thế này, người hiểu tứ thơ thế khác). Dĩ nhiên có thể mỗi người mỗi ý khi nói đến cái hay (hoặc dở) của câu chữ, hình tượng, kỹ thuật thơ … nhưng nội dung của bài thơ phải hiểu đúng như ngôn ngữ đã chuyên chở nó.
Riêng với ngụ ý của bài thơ thì tùy theo óc tưởng tượng, khả năng liên tưởng và trực giác thơ ca của mình, mỗi người đọc có thể sẽ cảm nhận khác nhau (có khi khác với tác giả). Một trong những nhiệm vụ của người bình thơ là tìm ra, thuyết phục để người yêu thơ đến với, và chấp nhận cách hiểu vừa hợp lý vừa nâng giá trị của bài thơ lên cao nhất.
So Sánh CHĂN TRÂU ĐỐT LỬA Và SÔNG LẤP
Chăn Trâu Đốt Lửa:
Ý tưởng độc đáo, tuyệt vời, “sâu sắc một triết lý nhân sinh” (3)
Hình ảnh đứa bé chăn trâu, con diều, củ khoai rất gần gũi, dân dã nhưng lại rất hợp, rất ăn khớp với đề tài; có thể nói tứ thơ rất khéo, hay và dễ thương.
Cái dở của CTĐL là có câu thơ nội gián, thế trận chữ nghĩa xộc xệch.
Sông Lấp:
Ý tưởng: nuối tiếc nền Nho học đang lụi tàn, cùng với một số bài thơ khác là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam, không hay bằng CTĐL
Tứ thơ hay hơn vì có 2 tầng ẩn dụ rất khéo.
Chữ dùng rất đắt, thế trận chặt chẽ.
Bài thơ toàn bích, không một chút sơ hở.
Kết luận:
Theo nhận định chủ quan của người viết thì Sông Lấp hay hơn. Chăn Trâu Đốt Lửa cũng như cô gái đẹp nhưng bị khuyết tật. Dưới con mắt của các anh hùng hảo hán đi tìm người yêu vẻ đẹp của cô gái ấy đã giảm đi quá nửa. Cũng vậy, ý tứ có hay cách mấy mà kỹ thuật thơ kém, thế trận chữ nghĩa xộc xệch thì bài thơ sẽ bị coi là hỏng, hoặc ít ra, giá trị cũng bị giảm đi rất nhiều.
Tạ Lỗi Trường Sơn (1982)
Xin trích mấy đoạn:
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
Đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào...
Lại bắt đầu ghẻ lở?
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật (6)
Đỗ Trung Quân viết Tạ Lỗi Trường Sơn với tâm thế của dân Sài Gòn (miền nam) nên dù đã từng đi TNXP, từng khoác áo bộ đội giọng thơ cũng vẫn nặng mùi của bên thua cuộc. Đó là tập hợp một cách nghệ thuật những lời đốp chát, vỗ thẳng mặt, nói hằn học trong cơn giận dữ, phân định “mi”, “ta” rõ ràng. “Ta nói thẳng cho mi biết: Bây giờ cái bản mặt đạo đức giả của mi đã lộ ra. Những xấu xa bẩn thỉu ngày nào mi gán cho ta thì giờ này mi bẩn thỉu xấu xa còn nhiều hơn thế nữa.” Bài thơ này phía “ta” nghe rất sướng tai, nhưng phía “mi” thì “biết là nó nói đúng đấy nhưng cái kiểu ‘vuốt mặt mà không nể mũi’ như nó thì khó chấp nhận quá.”
Tôi không đi vào chi tiết của kỹ thuật thơ ca như một bài bình thơ nhưng cũng cần nói lên một điểm: đây là bài thơ rất hay; cảm xúc dạt dào, hồn thơ lai láng, hơi thơ rất mạnh, có khả năng lôi cuốn người đọc từ câu đầu đến câu cuối. Đặc biệt là nội dung (ở đây ý và tứ là một), tác giả đã “lội ngược dòng”, viết nên những vần thơ đối chọi vớì dòng thơ phải đạo, nói lên những điều bị coi là cấm kỵ, không ai dám nói dù là sự thật. Chính vì thế mà bài thơ phải chờ đến 27 năm sau mới được trình làng.
Và cũng nhờ ý tứ không trôi xuôi, không phải đạo ấy giá trị và sức hấp dẫn của bài thơ đã gia tăng đáng kể.
Nhìn Từ Xa Tổ Quốc (8/1988)
Xin trích vài đoạn chính:
Vâng – một thời không thể nào phủ nhậntất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
………………………………..
Xứ sở nhân tìnhsao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
…………………………………………………………….
Xứ sở thật thàsao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thôngÀo ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
…………………………………………………….
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
…………………………………………………………………..
Xứ sở kỷ cươngsao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không
một người đi chật cả con đường (7)
…………………………………………………………..
Với tôi, đây là bài thơ rất hay, có thể nói là một “bài thơ lớn”, ngôn ngữ, hình tượng sắc sảo, thật và sống động; hơi thơ dài và mạnh, cảm xúc nóng bỏng, hồn thơ lai láng. Bằng tấm lòng yêu nước sắt son, bằng những vần thơ như dao sắc của mình, Nguyễn Duy đã gởi đến độc giả những lời tâm tình khó nghe nhưng rất thật; đó là những tiêu cực, những tệ nạn xấu xa của con người nói riêng và xã hội VN nói chung, mà sau hơn 13 năm chấm dứt chiến tranh vẫn tồn tại, vẫn hiện ra nhan nhản mà chưa được công khai nói đến. Ngay từ lúc mới phổ biến bài thơ đã gây sóng gió trên thi đàn, xôn xao dư luận. “Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn Từ Xa … Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm.” (8) Nhưng sau đó sóng gió cũng qua, sự thật vẫn là sự thật; bài thơ đã được chấp nhận và công khai in ấn.
Cả 2 bài thơ đều hay. Hơi thơ của TLTS mạnh hơn nên đọc lên nghe hấp dẫn hơn, sướng tai hơn. Còn Nguyễn Duy viết NTXTQ với tâm thế của bên thắng cuộc (con cưng của chế độ, được đi du học ở Nga, đầu tàu của phong trào Xã Hội Chủ Nghĩa) nhưng ông - đã rất khéo - nhân danh một con dân VN yêu nước, nói tiếng nói chung cho cả dân tộc, tầm nhìn xa hơn, nhắm đến khối độc giả lớn hơn. Hơn nữa, những vấn nạn ông đưa ra to lớn, nghiêm trọng hơn, lời trách móc của ông nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc hơn, “nỗi đau” trong thơ lớn hơn, nhân bản hơn, sâu sắc hơn.
ĐTQ và ND là 2 nhà thơ tài năng, kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn, đã viết TLTS và NTXTQ trong lúc thi hứng ngất trời, để lại cho đời 2 bài thơ “rất nặng ký”. Nhưng chính ý tứ (ở đây là nội dung) của bài thơ – dám bước vào khu vườn cấm, lội ngược với dòng thơ phải đạo – đã khiến hai bài thơ đã hay lại càng thêm hấp dẫn.
NAM QUỐC SƠN HÀ
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
SÔNG NÚI NƯỚC NAM
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành phân định tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
(Trần Trọng Kim dịch)
Năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn. Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xảy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên. Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất ngờ, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho người sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt. (9)
Ý và tứ của bài thơ giống nhau và rất rõ ràng, một người dân bình thường cũng có thể hiểu được, không cần giải thích. Lúc ấy ý niệm về Luật Quốc Tế (International Law) còn rất xa lạ. Tác giả đã khéo léo lồng ý tứ bài thơ – quan niệm về chủ quyền quốc gia - vào thuyết thiên mệnh, một học thuyết gần gũi với suy nghĩ của người dân. Ý thơ hay và đầy sức thuyết phục nên binh sĩ đã hết lòng chiến đấu và đã đánh thắng quân Tống, giữ vững cõi bờ Đại Việt. Nhờ ý tứ mới lạ và độc đáo đó bài thơ đã được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nuớc. Hơn một ngàn năm trôi qua nó được tôn xưng là bài thơ có ý tưởng hay nhất của văn học Việt Nam và tôi tin rằng ngày nào nước Việt còn tồn tại bài thơ Nam Quốc Sơn Hà sẽ không bao giờ đi vào quên lãng.
KẾT LUẬN
Cá nhân tôi, rất nhiều khi nẩy ra một ý thơ định ngồi dậy cầm bút viết thì nhận ra cái ý ấy người ta – không phải một mà vô số người – đã viết từ lâu rồi. Một đề tài về bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống, thường là đã được - ở chỗ này hay chỗ khác, ở thời điểm này hay thời điểm khác, bằng cách này hay cách khác - đề cập đến. Cho nên nghĩ ra một ý tưởng hay, mới lạ, độc đáo để đưa vào thơ là cực kỳ khó. Chỉ có những tài năng đặc biệt, có khi phải nhờ may mắn, cộng thêm một chút duyên nữa mới có thể nghĩ ra, và đôi lúc, còn cần đến lòng dũng cảm vượt bậc mới dám viết về cái “ý mới” ấy. Còn số đông nhà thơ khác đều lũ lượt nối đuôi nhau tìm đến những đề tài muôn thuở: tình yêu, quê hương, chính trị xu thời, thị hiếu của đám đông và những đề tài phải đạo khác.
Đến đây tôi mới hiểu ra lời dặn dò của 2 ông bạn Mỹ, tuy có vẻ đối nghịch nhau nhưng bổ khuyết cho nhau và đều rất hữu lý. Nếu tổng hợp hai ý kiến ấy cộng với một số tìm hiểu của riêng tôi, vai trò của ý tứ trong thơ có thể được trình bày như sau:
Ý tưởng chính, đề tài của bài thơ có thể được chia làm mấy hạng (từ cao xuống thấp):
1/ Cao đẹp, khai phóng, thăng hoa tâm hồn con người, hoàn toàn mới lạ, độc đáo. (Điều này có thể đạt được nhưng rất khó và rất hiếm)
2/ Lách, thoát hẳn ra khỏi (hoặc ngược với) dòng thơ Phải Đạo.
3/ Một hiện tượng, một lối sống, một cách nghĩ của một giai đoạn lịch sử đã lác đác có người viết đề cập đến nhưng chưa có tác phẩm nào xuất sắc.
4/ Viết theo phong trào, xu hướng chính trị, theo thị hiếu của đám đông, chọn những đề tài muôn thuở (tình yêu, quê hương …), những con đường đã có hàng triệu dấu chân.
Nghĩ được một ý tưởng hay thì phải bắt lấy ngay vì bài thơ có ý hay, độc đáo sẽ được đánh giá cao gấp bội. Nhưng nếu thi hứng của mình cứ nghiêng về phía “đường xưa lối cũ” thì hãy chọn con đường ít dấu chân hoặc chưa có dấu chân nào đậm nét. Thi sĩ cũng có thể tạo một khung cảnh mới để tiếp cận đề tài (thí dụ: Sông Lấp); ý chưa được mới lạ thì ít nhất cũng có tứ hay.
Ý tứ là quan trọng đấy; tuy nhiên, còn quan trọng hơn chính là tay nghề của thi sĩ. Kỹ thuật thơ mà kém cỏi thì ý tứ có hay bài thơ cũng chìm xuồng, không thể nổi đình, nổi đám trong tâm hồn người đọc được
Tóm lại, Ý Tứ chỉ là một trong nhiều tiêu chí để thẩm định giá trị một bài thơ. Tìm được ý tưởng hay, hoàn toàn mới lạ, độc đáo (không phải dễ và không phải cứ nỗ lực là sẽ tim được) sẽ nâng giá trị bài thơ lên rất nhiều. Với thơ, ý tưởng là một tiêu chí rất khó đạt điểm tối đa. Tuy nhiên, nếu đặc biệt quan tâm đến việc chọn cách tiếp cận đề tài, tạo được khung cảnh thích hợp, bài thơ sẽ có tứ hay. Riêng về Ý, dù biết là cực khó để đạt được điểm 10 nhưng cũng đừng để phải ăn một con số không (0) to tướng.
League City 02/19/2016
Phạm Đức Nhì
Rất mong đón nhận phê bình chỉ điểm của người yêu thơ.
CHÚ THÍCH:
1/ Ở Mỹ, một nước thiên về kỹ nghệ và kinh doanh, thi sĩ rất tự hào xem mình là “động vật quý hiếm”
5/ Tác giả mượn ý lời bình của chính mình cho mấy bài thơ xuất hiện trong bài viết.
7/ Tuyển tập “36 Bài Thơ” của Nguyễn Duy trong có bài NTXTQ, do nhà xuất bản Lao Động ấn hành năm 2007.