Thế Lộc |
Đọc NGỰA VỀ GIỮA CHỐN BỤI MÙ, thơ Thế Lộc
Châu
Thạch
Chúng ta, những ai yêu thơ, chắc chắn đã từng
đọc hàng chục, hàng trăm bài thơ khóc cho sanh ly tử biệt, khóc cho người thân đã
thành người quá cố. Trong những bài thơ đó có rất nhiều bài thơ hay, làm cho ta
rơi lệ, nhưng khó tìm đâu ra một bài thơ làm cho ta vơi bớt đi bi luỵ trong lòng,
đem đến cho ta niềm hy vọng một viễn cảnh tốt đẹp của người thân ở thế giới bên
kia. Bài thơ “Ngựa về giữa chốn bụi mù’ của Thế Lộc mô tả hình ảnh người về thế
giới bên kia như con ngựa quay về giữa chốn bụi mù là một tứ thơ độc đáo, diễn
tả một ý thơ mới mẽ và mang vẽ đẹp tuyệt vời:
NGỰA VỀ GIỮA CHỐN BỤI MÙ
(Cho Dương Thế Kinh Luân)
Ngựa đã về chốn an nhiên
Hí vang rừng núi cửa thiền rộng thênh
Miên trường, sinh diệt mông mênh
Yên cương hạnh ngộ bồng bềnh thiên thu
Ngựa về giữa chốn bụi mù
Mưa tâm đã tình, nghìn thu rạng ngời
Nhịp chuông ai thả chơi vơi
Ngựa thiên cổ đã vể trời vãng sinh
21.2.1016
Thế Lộc
Hình ảnh con ngựa
dựng bờm tung vó phi nước đại khiến bụi mù tung lên cả một vùng là hình tượng
oai phong, dũng mảnh và hùng tráng đã trở thành thông lệ cho bút pháp tranh ngựa
từ ngàn xưa cho đến ngàn sau. Thế Lộc dùng hình ảnh nầy để miêu tả linh hồn con
trai của mình đi về thế giới ngàn thu là một tư duy cách mạng, phá bỏ những câu
thơ ai điếu bi luỵ từ xưa đến nay nhưng vẫn bày tỏ được không những tình yêu vô
bờ bến của một người cha đối với con mình, mà còn tôn vinh được hào khí của
linh hồn con trai đi vào nơi vinh hiển. Cái hào khí nầy, cái phong độ nầy chắc
chắn là hình ảnh tươi thắm khi con nhà thơ còn sống trên trần đời.
Ta hãy phân tích
hai câu thơ ở vế mở đầu:
Ngựa đã về chốn an nhiên
Hí vang rừng núi cửa thiền rộng thênh
Ngựa mà về chốn
“an nhiên” tức nhiên là chỗ có đồng cỏ xanh tươi, mé nước bình tịnh để an nghĩ nơi đây. Ngựa về
chốn “an nhiên” mà “hí vang rừng núi” là ngựa vui mừng khôn tả. Nơi ngựa về vừa
là chốn “an nhiên” vừa là “cửa thiền” thì không đâu khác hơn là cõi Niết Bàn. Tôi
không biết cõi Niết Bàn đẹp ra sao nhưng tôi nghĩ chắc nó cũng như cõi Thiên Đàng
mà thôi, vì hai nơi nầy đều toàn thiện toàn mỹ như nhau. Theo kinh Thánh sách
Khải Huyền thì ở đó thành bằng vàng ròng, tường bằng ngọc quý, có dòng sông mà
hai bên bờ là cây sự sống, lá cây dùng để chửa bệnh cho muôn dân. Ở đó sự nguyền
rủa không còn nữa, đêm không còn nữa. Người ta sẽ đem vinh quang và vinh dự các
dân tộc vào đó. Những gì ô uế, những người làm điều kinh tởm, giả dối không vào
đó được. Sẽ không còn tang chế, khóc lóc hay đau khổ, vì những điều ấy đã qua rồi.
Con người thường dùng các chữ “phiêu diêu cực
lạc” để chỉ linh hồn đi vào nơi giống như trong Kinh Thánh khải thị. Chữ “phiêu
diêu” khiến ta liên nghĩ đến linh hồn con người như một cái lông nhẹ nhàng bay
vào đất mới. Con người còn hay dùng chữ “siêu thoát” về miền cực lạc. Chữ “siêu
thoát” khiến ta liên tưởng linh hồn giống như một tia chớp xẹt vào chốn an vui.
Những chữ nầy làm cho linh hồn con người có hình ảnh quá mong manh và yếu đuối.
Một chiếc lông, một tia chớp dầu nó đến nơi bình an thì cũng chỉ là sự quay về
một cách vẳng lặng và hẩm hiu, mang hình ảnh buồn thảm vì đã thất bại trước bao
nỗi đoạ đày nơi trần thế, nay thất thểu quay về miền an tịnh mà thôi.
Thế Lộc không thế,
nhà thơ diễn tả linh hồn con người về cõi Niết Bàn như con ngựa tung vó hí vang
mang tin mừng chiến thắng trở về. Chiến thắng gì? chiến thắng trong trận chiến
dưới trần ai. Làm tròn trách nhiệm và sứ mạng thiêng liêng của mình nơi có nhiều
gian nan và thử thách. Như thế hai câu thơ đầu đã vẽ nên một bức tranh sống động.
Hình ảnh con ngựa giữa cảnh rừng núi hùng vĩ nhưng yên tịnh làm mờ đi sự chết,
dựng lại sự sống đầy sinh lực của linh hồn nơi cõi mới, an lòng người thân biết
bao nhiêu.
Hai câu lục bát tiếp theo của bài thơ diễn tả sự đoàn tụ chứ
không phải là tiếng khóc chia ly:
Miên trường, sinh diệt mông mênh
Yên cương hạnh ngộ bồng bềnh thiên thu
"Miên trường” là
gì? Hai chữ nầy lấy trong thơ Bùi Giáng: “Xin chào nhau giữa con đường/ Mùa xuân
phía trước, miên trường phía sau”. Chưa ai giải thích được “miên Trường” là gì.
Có người cho miên trường là vô tận, có người cho miên trường là giấc ngũ dài, có
người cho miên trường là môt vùng cô liêu rộng lớn. Gộp ba ý nầy lại, cọng với
chữ “sinh diệt mông mênh” của Thế Lộc ta có thể giải nghĩa ý thơ của câu “Miên
trường, sinh diệt mông mênh” là chỉ một cõi vô tận có sinh và có diệt, là thế
giới mông mênh chứa đựng bánh xe luân hồi của Phật giáo. Cõi miên trường đó không
còn là chốn của ngựa nữa, vì ngựa đã “Yên cương hạnh ngộ bồng bềnh thiên
thu” nghĩa là ngựa đã vinh hạnh gặp nơi ngàn thu. Nơi ngàn thu đó có thể là sự
bồng bềnh ở chốn cực lạc hoặc là nơi linh hồn bồng bềnh phiêu diêu miền cực lạc.
Dầu hiểu thế nào thì hai câu thơ cũng nói lên linh hồn đã thoát vòng cương toả
của bánh xe luân hồi để về miền thiên quốc.
Hai câu thơ kế tiếp nhà thơ muốn nói lên sự đạt đạo của linh
hồn:
Ngựa về giữa chốn bụi mù
Mưa tâm đã tịnh, nghìn thu rạng ngời
“Mưa” thì có gió,
có sấm có sét biểu hiện cho mọi biến động của linh hồn. Những biến động đó sinh
ra mọi đau khổ, làm ra sinh lão bệnh tử, và cái khổ đế đó kẹp cứng linh hồn
trong bánh xe luân hồi đời đời kiếp kiếp. “Ngựa về chốn bụi mù” trong tâm trạng
“Mưa tâm đã tịnh” nghĩa là tâm hồn đã khống chế được cái ta xao động, cái ta
bay nhảy, cái ta tội lỗi đã dìm linh hồn lâu nay không thấy được sự “rạng ngời”
của đạo. Bây giờ tâm đã định, linh hồn con người chiến thắng tội lỗi, như con
ngựa hí vang, thoát cõi miên trường sinh diệt, về chốn rạng ngời đạo pháp, chốn
bồng lai tiên cảnh. Hai câu thơ nầy đưa ra hai bức tranh khác biệt, một bức náo
nhiệt với hình ảnh ngựa quay về trong bụi mù, một bức ngựa bình tịnh an vui. Cả hai bức tranh vừa động
vừa tỉnh làm người đọc cảm nhận tất cả sự háo hức, niềm vui tràn ngập khi linh
hồn thoát ra khỏi trần gian về nơi mình mong muốn.
Hai câu chót của
bài thơ là tiếng nhạc đưa đường:
Nhịp chuông ai thả chơi vơi
Ngựa thiên cổ đã về trời vãng sinh
Nhịp chuông hay là nhạc chuông cũng vậy, nó đều mang ý nghĩa
của sự nguyện cầu nơi trần thế, nó đều mang ý nghĩa của tiếng buồn vọng lên thinh
không. Đây là nỗi lòng của người ở lại. đây là tiếng khóc chia ly. Nếu bài thơ
chỉ nói niềm vui của người đi mà không nói đến nỗi buồn trong cảnh ly biệt thì
bài thơ không thật. Cái đau của Thế Lộc cũng vô cùng được diễn tả trong câu “Nhịp
chuông ai thả chơi vơi”, nhưng nỗi đau đó không là nỗi đau tuyệt vọng. Nó mang
niềm hy vọng tuyệt đẹp trong câu thơ “Ngựa thiên cổ đã về trời vãng sanh”. “ Ngựa
thiên cổ” là con ngựa nghìn năm trước, ý nói linh hồn đã đi qua ngàn kiếp trong
tục luỵ, nay đã cởi bỏ kiếp thồ để về nước trời vĩnh viễn.
Thơ Thế lộc thường mang đầy tâm trạng. Cuộc đời bất đắc
chí, những người thân ra đi đem đến cho nhà thơ rất nhiều ưu tư, dằn vặt và nỗi
ưu tư đó anh đem vào thơ lúc nào cũng buồn thắm thiết. Riêng bài thơ nầy, nỗi
buồn chẳng phải là không sâu, nhưng cái tư duy đổi mới làm cho hình ảnh người
ra đi cao đẹp làm sao, hùng tráng làm sao và khiến cho tâm trạng người ở lại cũng vơi đi
đau khổ khi nhìn qua bên kia thế giới cũng thấy có niềm vui ./.
Châu Thạch
No comments:
Post a Comment