Mỗi dịp Giáng Sinh
về, từ khoảng nửa thế kỷ qua, người ta đã khá “quen” với ca khúc “Bóng Nhỏ Giáo Đường” của NS Nguyễn Văn
Đông, nhưng bài này được ông ký với bút danh Phượng Linh. “Bóng Nhỏ Giáo Đường”
có thể là một ngôi thánh đường nhỏ bé và đơn nghèo, cũng có thể là bóng dáng
người yêu bé nhỏ, một cô nàng nào đó...
Không biết tôi có
“duyên nợ” gì với NS Nguyễn Văn Đông hay không mà ngay từ hồi đó, tôi đã cảm
thấy “hợp” với nhạc của ông, nhất là bài “Mùa Sao Sáng”. Từ thuở còn là thiếu
nhi, tôi thường nghe nhạc nhiều qua làn sóng phát thanh ngày xưa, hầu như nghe
cả ngày lẫn đêm, cứ rảnh là nghe, có lẽ nhờ vậy mà tôi biết được nhiều “tên
tuổi” thời đó.
Khoảng hơn 20 năm
trước, có người muốn biết tông tích NS Nguyễn Văn Đông, người này không biết
tìm ông ở đâu nên mới hỏi Hội Âm Nhạc, không hiểu sao người ta lại cho số điện
thoại của tôi, dù tuổi tôi và tuổi NS Đông chênh lệch nhau nhiều. Lạ thật!
Vả lại, ngày xưa người
ta in những tờ nhạc nhiều lắm, trên các làn sóng giới thiệu rõ ràng tên tuổi
tác giả chứ không như ngày nay, người ta thường giới thiệu tên ca sĩ chứ tác
giả chẳng được coi ra gì, dù tác giả là người “thai nghén” và “sinh ra” tác
phẩm. Chính “cha đẻ” lại bị lãng quên! Ngược lại, trên đài phát thanh hoặc
truyền hình, ngày nay người ta “vô tư” giới thiệu bài hát nào đó “của” ca sĩ
này, ca sĩ nọ, chứ không phải của nhạc sĩ. Ngôn ngữ sai bét nhè như thế mà
người ta không chịu sửa. Tệ thật! Làm văn hóa mà xem chừng lại phi văn hóa quá
đỗi!
“Bóng Nhỏ Giáo
Đường” là ca khúc được NS Nguyễn Văn Đông viết trong thời chiến, với tâm trạng
một binh sĩ tác chiến nơi chiến trường xa. Giáng Sinh đang đến gần, nỗi nhớ nhà
và nhớ người yêu da diết, người lính “thăm dò” thế này: “Có ai về miền quê lửa khói cho tôi nhắn vài câu, cách xa lâu rồi không
biết em còn giận hờn anh nữa thôi. Chuyện ngày xưa hai đứa thương
nhau trong đêm nhiều sao sáng, dưới lầu chuông anh khắc tên nhau
chung trong lời khấn xin chan chứa niềm tin”. NS Đông rất thích sao
sáng, chắc hẳn sao sáng có gì đó đặc biệt lắm. Đúng vậy, không đặc biệt sao
được, vì đó là đêm Con Chúa giáng sinh, và lại là “mốc” kỷ niệm lúc hai người
chính thức “là của nhau”.
Tình yêu đã lên
ngôi, hạnh phúc tràn trề, kỷ niệm đẹp lắm. Thế nhưng niềm vui lại không trọn
vẹn: “Có ai ngờ tình yêu ngày đó gieo
ngang trái sầu lo, lửa binh lan tràn hai đứa đôi đàng mộng đẹp kia vỡ tan”.
Không phải tại chàng hay nàng, mà tại chiến cuộc. Người buồn, cảnh có vui đâu
bao giờ! Vì thế, từng hồi chuông giáng sinh ngân vang niềm vui thì lại hóa sầu
bi: “Từng hồi chuông tha thiết bi ai vang
trong mùa quan tái, tiếng cầu kinh khe khẽ thôi vang khi quân giặc giẫm
tan ngôi thánh lầu chuông”. Lòng buồn nhưng anh lính vẫn tin tưởng mà cầu
nguyện. Có lẽ ít người dùng từ “quan tái”, nhất là ngày nay. Quan tái là quan
ải, chỉ nơi biên cương, bờ cõi. NS Đông “chơi chữ” khi sử dụng cụm từ “mùa quan
tái”, ý nói người lính đang phải làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nơi biên giới xa.
Kỷ niệm ùa về khi
Giáng Sinh về, không chỉ kỷ niệm vui mà còn cả kỷ niệm buồn: “Nhớ mãi ngày ấy quân cướp xô bừa hạ gác
chuông, nước mắt em tuôn xót xa quỳ trên đống tro tàn”. Con gái mau nước
mắt là chuyện bình thường, nhưng cô người yêu của anh lính đã khóc vì gác
chuông bị quân địch phá đổ. Chính gác lầu chuông đó là nơi anh lính đã chính
thức tỏ tình với nàng.
Và rồi chính anh
lính cũng đã góp công sức làm lại gác chuông nhà thờ ngày ấy. Kỷ niệm như còn
mới nguyên: “Nhớ mãi ngày ấy anh góp tre
dựng lại gác chuông, với trí ngây thơ vững tin tầm vông giữ Nhà thờ, kỷ niệm
của chúng ta!”. Gác chuông ngày xưa đơn giản thôi, nhất là lại ở vùng quê,
tre hoặc tầm vông là vật liệu chính khi xây dựng nhà cửa, tất nhiên với nhà thờ
thì cũng vậy thôi. Gác chuông là phần không thể thiếu ở các nhà thờ, và nó cũng
không thể thiếu trong ký ức yêu của hai người. Thế mà chiến tranh đã nhẫn tâm phá
vỡ! Đúng ra thì không phải lỗi của chiến tranh mà là tội của những người gây ra
chiến tranh.
Thời gian cứ vô tình
trôi, kỷ niệm vui buồn cũng theo anh lính trên mọi chiến tuyến: “Mấy năm rồi buồn vui ngày đó theo anh giữa
trời sông, dẫu xa phương trời nhưng sống muôn đời chuyện lầu chuông thuở
xưa. Và từng đêm anh chắp hai tay xin cho tình yêu đó thấm nhuần trong tay Chúa
ban ơn anh xây lại gác chuông trên kỷ niệm xưa”. Cái hay của người
lính là “chất đạo đức” không vì khổ cực mà phai nhòa, ngược lại còn tăng thêm,
anh chứng minh qua việc cầu nguyện hàng đêm, khi không gian và thời gian trở
vào tĩnh lặng, dù có thể tiếng bom đạn vẫn không ngừng kêu xé không trung…
Niềm tin vẫn còn thì
tất cả vẫn còn. Bóng nhỏ giáo đường nằm sâu là lẩn khuất ở miền quê, nhưng bóng
đức tin lại to lớn, có thể che rợp cả bầu trời rộng và lòng người.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con!
TRẦM THIÊN THU
(*) Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15-3-1932 tại quận
1 (Saigon), nguyên quán ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh. Năm 1946, gia đình gửi
ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu. Ông có các bút danh khác
là Phượng Linh, Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử. Ông là
một nhạc sĩ của dòng nhạc tình ca Việt Nam, tác giả của nhiều ca khúc tân
nhạc nổi tiếng như Chiều Mưa Biên Giới, Hải Ngoại Thương
Ca, Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Ai Đi Ngoài Sương Gió, Bóng Nhỏ Giáo
Đường, Chiều Mưa Biên Giới, Cay Đắng Tình Đời, Bẽ Bàng,... Ngoài ra ông còn là
soạn giả của một số tuồng cải lương thịnh hành như Tiếng Hạc Trong
Trăng, Nửa Đời Hương Phấn.
Ông là Truởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần ca
nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh
Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy
Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim… Từ năm 1958, ông là
trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát Thanh Saigon, gồm những danh
ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh
Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc...
Ông còn là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và
Sơn Ca nổi tiếng, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn
Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân,... Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương
trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng và cải lương. Chính
Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà
trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng
trong đó có Khánh Ly (Sơn Ca 7), Thái Thanh và Ban nhạc Thăng Long
(Sơn Ca 10), Lệ Thu (Sơn Ca 9), Phương Dung (Sơn Ca 5 và 11), Giao
Linh (Sơn Ca 6), Sơn Ca (Sơn Ca 8)... và một số album riêng cho nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn. Ca sĩ Thanh Tuyền là một trong các học trò của NS Nguyễn Văn
Đông.
Thưởng thức ca khúc “Bóng Nhỏ Giáo Đường”: http://www.youtube.com/watch?v=2MD_lTLNZgs