Chị Hà cùng tuổi với tôi, tuổi Thìn. Chị bảo nam Thìn nữ Tỵ
nên đời chị sẽ lận đận long đong, đời tôi sẽ hanh thông. Mới mười hai tuổi mà
chị như người lớn, lúc nào cũng gọi tôi bằng cậu, cậu em. Bên ngoại chị không
còn ai, chỉ bà con xa. Bác Ca, cậu ruột chị là người cuối cùng trong chi, bị
Tây bắn lúc mới mười tám tuổi. Mỗi lần ai nhắc đến Bác Ca là O (1) Hát mẹ chị
Hà khóc tấm tức, bảo sao trời không cho O chết thay cậu ấy. Tuyệt tự! Điều đó
khiến O Hát càng quý bên ngoại hơn. Mỗi năm đến ngày chạp mả O Hát dắt cả ba
đứa con về. Anh Thổ là lực điền đúng nghĩa, cao to như Tây, da ngăm, mặt chữ điền.
O Hát bảo giống dượng(2) như đúc. Dượng cũng bị Tây bắt đi rồi chết đâu mất xác
năm sinh chị Hà. Anh Điền thư sinh hơn, da trắng như con gái. Chị Hà gầy nhom,
vác cái cuốc chét chạy lăng quăng theo hai anh. O Hát chỉ cho các con đây là mộ
ông ngoại bà ngoại, đây là ông bà cố…Biết bao nhiêu người đã khuất, từ ông nội
O Hát trở xuống. Đến trước mộ Bác Ca o Hát khóc òa lên, quỳ xuống lạy. Cậu ơi
răng (3) chết đi. Răng không nối dõi tông đường. Tuyệt tự rồi cậu ơi. Chị Hà
quỳ bên cũng khóc. Hai anh trai vẫn thản nhiên dùng cuốc xẻng vun lại nấm mộ.
Một lát ngôi mộ như được mặc áo mới, trắng toát cát rờn rợn bên tiếng khóc O
Hát.
O Hát thương tôi như cháu ruột, quý ba tôi như em ruột. O
bảo phụ nữ chỉ một đời, vài đời sau con cháu sẽ kể nghe nói đời thứ mấy, thứ
mấy có mệ(4) ni mệ tê lấy chồng đâu bên làng Đông làng Tây mô đó. . .
Nhà tôi ở làng Tây gần quận lỵ, cách làng Đông khoảng năm
cây số. Thường hàng năm O Hát nói với ba tôi nghỉ hè cho cháu về ở với O, cho
có bạn với chị Hà. Tôi cũng thích rong chơi ở vùng quê, nhất là được cởi trâu
ra đồng cùng chị Hà. Tôi ngồi sau lưng chị, ôm eo chị trên lưng con trâu to béo
đi qua những cánh đồng sau mùa gặt thích lắm. Lúc trâu lội qua sông chị Hà cười
sang sảng, bảo tụi mình đi xe lội nước. Chị còn giải thích: “ Cậu biết Hà là
chi không, là sông đó. Anh Thổ là đất, anh Điền là ruộng”. Tôi bảo: “Ruộng đất
không có nước thì không có khoai lúa, chị Hà là quan trọng nhất”. Chị cười
thích thú. Suốt mùa hè chúng tôi ở ngoài đồng, bên dòng sông nhỏ. Ăn cơm trưa
trong cái mo cau với cá kho ngon tuyệt. Ăn rồi tắm, tắm rồi ăn.
Lũ trẻ nhà quê tinh nghịch cặp đôi tôi với chị, tôi bảo bà
con, đừng nói bậy O Hát đánh chết. Tụi trẻ nhảy tưng tưng hát vè tục tằn, “bà
con hai họ, lọ mọ cả đêm, chị trống em kèn, tùng xèng tùng xèng…” Chị Hà cầm
roi tre rượt đuổi đám trẻ. Áo chị bị gai tre móc rách tơi tả chị vẫn rượt. Ngã
lăn xuống ruộng lại bò đứng lên rượt đuổi đến cùng. Tụi nhỏ sợ chị chạy tán
loạn. Chị ngồi bệt bên giường ruộng khóc rống riết. Tôi run rẩy đến gần, cầm
tay kéo chị đứng lên, chị dằn tay lại trừng mắt kêu: “Đồ hèn, con trai mà hèn”.
Tôi ngồi trên giường ruộng nhìn mặt trời lặn. Gió Nam (5) giật từng cơn, rặng tre lào
xào lao xao. Tôi cúi mặt trên hai đầu gối khóc thút thít. Ngửng lên thấy bóng
chị xấp xãi trên đường bạn, tôi vội vã chạy lúc thúc theo về. O Hát hỏi chuyện
chi rứa, chị bảo tụi nhỏ cặp đôi con với cậu Thìn. O Hát cười, “ Cặp đôi có
chết ai mô (6). Bên ngoại bốn đời là lấy chắc (7) được. O sẽ gả con Hà về bên
ngoại để lo hương khói mả mồ”. Chị Hà đấm thùm thụp vào lưng mẹ, kêu lên “ Bà
con mà, bà con mà…, con không chịu mô”.
Suốt buổi sáng hôm sau chị Hà không thèm nói chuyện với tôi.
Buồn. Buổi chiều tôi theo anh Điền đi bừa ruộng. Anh Điền hiền như ruộng, cho
tôi đứng lên chiếc bừa gỗ thích lắm. Dù vậy tôi cứ mong trời chiều để về gặp
chị Hà. Chị đứng chờ tôi trước ngõ, bảo vô tắm rồi ăn cơm học bài. Chị cầm tay
tôi dắt ra giếng, cởi áo cho tôi rồi bảo ngồi xuống. Chị dội nước lên đầu tôi
kỳ cọ. Lúc chị toan đụng phía dưới tôi hất tay chị ra. Chị cười khúc khích bảo
thôi tự tắm đi, không sạch là ăn roi nghe chưa.
Một tối Chị Hà kêu Thìn ơi ra đây chơi. Chị ngồi dưới bụi
tre trước sân nhà, dưới am thờ, bên cạnh cái cối đá. Cái cối để dưới am thờ
nhỏ, chị đã thắp lên đó ba cây nhang. Tôi toan ngồi lên cối thì chị kéo tay bảo
không nên. Cái cối này là kỷ vật của ông ngoại, linh lắm. Cái cối đá sứt tai
đen thủi nằm dưới am thờ thì linh nỗi gì, tôi thắc mắc trong lòng. Chị kéo tay
tôi ngồi gần, thì thào: “ Cậu có tin không, cối đá cũng có linh hồn. Cái chi
cũng có linh hồn hết, mụ Thà nói rứa (8)”. Mụ Thà là cô đồng bóng, mỗi lần vong
nhập vào mụ nói giọng lơ lớ kiểu người âm phủ. Bọn trẻ chúng tôi thường tụm lại
xem mỗi lần mụ lên đồng. Tôi hỏi mụ Thà nói chi. Chị Hà giọng nghiêm trọng kể:
“ Cái cối này là hồi môn của ngoại. Mạ (9) kể Tây đốt nhà cả thảy mười ba lần,
cái chi cũng cháy, chỉ còn cái cối này, nó bị bom phạt sứt tai”. Chị đưa tay
xoa rờ lên chỗ sứt rồi tiếp: “ Mạ kể Mệ ngoại mất lúc sinh cậu Ca.
Ông ngoại mất mạ mười sáu tuổi, cậu Ca mười bốn. Ông ngoại
trối lại rằng, con trâu và hai sào ruộng để lại cho cậu Ca sinh sống và lập gia
đình nối dõi tông đường. Nhà cửa chẳng còn chi để hồi môn cho con gái. Chỉ còn
chiếc cối đá cha tặng con làm kỷ niệm. Nó không đáng giá nhưng có linh hồn của
cha mạ trong đó. Rồi ông nhắm mắt ra đi. Mạ còn kể cái cối là chứng tích ghi
lại mối tình của ngoại. Hai người tỏ tình với nhau bên chiếc cối này sau khi
giả gạo và hò đối đáp. Một lần đến làng mệ ngoại hò giả gạo, ông hò:
Hơ hơ…Anh ngồi bên ni tai cối/Em ngồi bên tê tai cối/ Tôi
thấy em mặc áo nối vải đà tóc búi vải bao. Tôi không phải là phường vô phương
tắc đạo mà băng hói lội rào tới đây”. Mệ “ bí” không “đối đặng” bèn hò: hơ
hơ…Đến đây thì ở lại đây, khi mô tốt rể xanh cây thì về”. Ông ở lại “mần (10)
rể” ba năm thì cưới. Mệ ngoại theo chồng mang theo chiếc cối đá này làm kỷ
niệm, lại đặt tên con là Ca Hát”.
Trăng hạ tuần. Dập dờn gió Nam từng đợt. Tre pheo cúi xuống
vờn lên, chiếu bóng những hình thù ma quái vật vã trên am thờ, lên cối đá.
Nhang cháy nhòe lay động. Nhìn chiếc cối đá đen đủi chỉa ba cái tai nhọn hoắt
như nhúc nhích, tôi lạnh toát người. O Hát ngủ sớm. Anh Điền đi đâu từ sẩm tối
chưa về.Trong nhà còn ngọn đèn dầu lấp loáng trên bàn thờ chực tắt. Xóm làng im
ắng, chỉ còn tiếng lào rào trên ngọn tre. Chị Hà cầm tay , níu đầu tôi nói nhỏ:
“ Anh Thổ gửi thư về nói mạ nên cho anh Điền ra tỉnh làm chi cũng được, đừng ở
nhà, bất trắc lắm. Anh nói anh đi lính Cộng Hòa trong Nam sình lầy
cực khổ lắm. Sang năm anh mới có phép về thăm. Chị đọc thư cho mạ nghe, xong mạ
bảo đốt đi. Hôm qua chị nghe anh Điền nói với mạ là đừng để cậu ở đây nữa,
không hay”. Chị ghé sát tai tôi thì thào, “Anh Điền theo du kích, có súng. Cậu
đừng nói với ai nghe chưa. Mai chắc chị em mình không còn gần nhau nữa, Thìn
buồn không”. Chị quàng vai tôi thút thít, bập bệu, “ Cậu về trên đó đừng nói
chi với ai về chuyện anh Điền nghe. Khi nào chị đi chợ Huyện sẽ ghé thăm cậu”.
Tôi và chị vào nhà sửa soạn đồ đạc để mai cùng chị về nhà.
Cả đêm đó tôi không ngủ được. Nằm trên tấm phản nghe gió xào xạc trên mái
tranh. Anh Điền vẫn chưa về. Gà gáy canh ba chị Hà đã dậy nấu cơm. Ánh lửa rơm
chập chờn bóng chị trên vách, lòng tôi đau thắt, nằm khóc thầm.
Chị Hà lại bới cơm vào mo cau như thường lệ, nói với O Hát:
“Con đưa cậu Thìn về nghe mạ, chiều con mới về. Hôm qua con đã cắt cỏ đủ trâu
ăn rồi”. Tôi chào O Hát. O xoa đầu tôi khuyên ngoan và học giỏi, xứng đáng với
dòng họ nhà mình.
Chúng tôi men theo đường trâu đi hàng ngày. Những ô ruộng
vừa vào nước phở (10) sủi bọt. Mùi đất thơm vấn vương trong gió Nam lào thổi
nhẹ. Chị Hà bảo, “ Ngày ni mình chơi đến xế chiều rồi chia tay”. Tôi không trả
lời, tha thủi đi theo chị. Dừng ở bến sông vắng, nơi có bụi la ngà vươn ra giữa
dòng, chị Hà soạn cơm ra cùng tôi ăn. Cơm còn nóng trong mo cau ăn với muối sả.
Mặt trời đỏ lựng cao dần phía lũy tre nhà O Hát. Ở đó tôi
tin là O đang nhìn với theo, hướng về phía ngoại, nơi có mồ mả mười mấy đời, và
gửi vào chúng tôi một niềm tin xót xa mơ hồ nào đó.
Chị Hà rủ tôi tắm. Chúng tôi ngập lặn thỏa thích. Thường
ngày đi chăn trâu chị mặc áo nâu hoặc đen. Hôm nay chị lại mặc áo quần mỏng màu
sáng. Áo quần dính sát vào da thịt. Lần đầu tôi thấy rõ hai núm cau trên ngực
chị, lòng bứt rứt một cảm giác khó tả. Chị quay mặt đi, hai tay ôm ngực, giọng
như lạc đi: “ Cậu Thìn sinh tháng giêng, chị tháng tư. Hai chị em mình mười hai
tuổi rồi đó. Mới đó...”. Bất chợt chị Hà ôm riết tôi, hai núm cau ép vào ngực
trần tôi nóng hổi. Chị thì thào: “ Khi mô hết chiến tranh cậu lại về đi chăn
trâu với chị nghe”.
Chiều xế bên kia sông. Chúng tôi ngồi nhìn xuống những bóng
tre in lên dòng nước trong xanh. Không ai nói chi. Chị Hà cúi đầu bứt những
cọng cỏ đưa lên nhìn chăm chú, nhăn trán ưu tư, rồi nhìn về hướng mặt trời lặn
chớp mắt buồn bạn (buồn bã) , hai giọt nước mắt run rẩy lăn xuống hai gò má gầy
sạm nắng . Chị không nhìn tôi, bảo: “ Chiều rồi, cậu về đi”. “Chị về trước đi”.
Chúng tôi cứ nài nhau. Cuối cùng chị Hà xử: “Oăn tù tì, ai thua về trước” . Chị
Hà thua. Chị nhìn sững tôi, cũng lại lần đầu tôi thấy má chị ửng hồng. Đi một
đoạn chị lại ngoái nhìn lui. Bóng chị nhỏ dần, nhỏ dần thành một cánh cò lẻ loi
giữa cánh đồng mông quạnh.
Mấy đứa bạn kháo nhau sắp có đụng trận ở làng Đông. Thằng
Chinh Quắn rủ tôi đi coi đánh trận. Qua cánh đồng, làng Đông khói lửa ngút
trời. Mỗi lần đụn lửa cuộn lên, sau đó là tiếng nổ lớn, thằng Chinh nhảy cẩng
lên, múa tay la: “chết bây nì, chết bây nì…”, tim tôi lại thót đau, lòng ran
như lửa cháy. Nhà chị Hà có cháy không. Hầm trú ẩn có chịu nỗi những quả bom
không.
Cách năm cây số mà làng Đông với làng Tây là hai thế giới
đối nghịch. Suốt mấy tháng tôi không nghe tin gì về gia đình O Hát.
Một năm rồi hai năm. Một sáng tháng giêng tôi gặp chị Hà.
Chị quấn khăn tang đi theo chiếc xe kéo, trên đó là quan tài có phủ lá cờ vàng
ba sọc đỏ. Chị Hà gục vào vai tôi khóc òa lên. “ Thìn ơi, O Hát của Thìn mất rồi,
Anh Thổ cũng chết rồi đây nì. Thìn về làng với chị đi, để thắp nhang cho O, để
an táng cho anh Thổ, Thìn nghe. Đừng sợ ai cả, không sợ ai nữa cả. Cái tuổi chi
chị mà khổ ri hè (11), Thìn ơi là Thìn, hu hu…”. Sau một tiếng khóc là chị vổ
lên vai tôi, vừa đi vừa kể lể. Tôi bước theo chị trong mưa bấc. Đến bến sông
hồi mùa hè tôi và chị tắm. Trước khi đưa quan tài qua sông, hai người kéo xe
lột lá cờ vàng trên quan tài dấu vào bụi la ngà, lấm lét nhìn quanh.
Quan tài đưa thẳng lên huyệt. Anh Điền mang súng đứng lặng,
mắt đỏ hoe nhưng không khóc. Những nhát cuốc cuối cùng vun cát thành một ụ
trắng toát, trong tiếng kêu gào của mỗi mình chị Hà. Chị lại níu vai tôi ngất
đi.
Chị Hà bưng di ảnh anh Thổ cùng tôi về nhà. Chị đặt lên bàn
thờ bên bài vị O Dượng, thắp nhang và cùng tôi lạy. Xong chị giục: “Về đi kẻo
tối, cậu Thìn. Máu loảng hơn nước lạnh. Tôi nhớ ơn cậu suốt đời”. Tôi ôm chầm
chị run rẩy: “Chị Hà ơi, răng đời chị khổ rứa…” . Tôi không biết nói gì thêm,
buông chị quay đi như chạy. Tôi tha thủi theo đường bạn. Tôi chạy trong gió
bấc. Tôi bơi qua sông. Lại chạy. Vấp té xuống ruộng. Lại chạy…
Càng ngày tôi càng đi xa quê mình. Mỗi lần ngang cánh đồng,
có dòng sông tôi lại nhớ thương chị Hà da diết. Chị Hà có sống nổi không trong
bom đạn quê tôi.
Mười mấy năm sau tôi mới có dịp về quê, ngang cánh đồng xưa
tìm về nhà chị Hà. Đến bên bến sông, gặp người làng Đông tôi hỏi thăm về chị.
Họ bảo chị Hà lấy chồng bên làng Tây, làng ngoại của chị ấy rồi. Tội nghiệp, cả
hai vợ chồng đều tật nguyền.
Tôi không kịp hỏi thêm, nhắm hướng làng Tây mà chạy. Chị Hà
ngồi ru con bằng một tay, tay còn lại cụt tới nách. Chị nhìn sửng tôi rồi khóc
òa: “Cậu Thìn còn sống đó à. Tưởng cậu đi luôn không thèm về quê. Cháu cậu đây
nì, kêu bằng cậu hay ông trẻ cũng được”. Đôi mắt đẩm nước của chị ngời hạnh
phúc khi nựng thằng con trai kháu khỉnh của mình. Tôi hỏi tới: “Răng kêu cậu và
ông”. Sau khi rót nước mời , chị bình thản: “ Cậu không vui à. Ngồi xuống đây
tôi sẽ kể cậu nghe: Chồng tôi là cháu gọi cậu bằng chú họ. Anh ấy đi lính Cộng
Hòa cùng lứa cậu. Số phận khắc nghiệt thiệt. Đến ngày cuối cùng của cuộc chiến
anh ấy lại bị thương, cụt cả hai chân. Mà cũng may, rứa mới gặp tôi. Còn tôi từ
ngày nhà cửa cháy hết anh Điền đem tôi theo lên rừng. Năm sáu chín anh Điền
cũng mất sau một trận sốt rét rừng. Tôi lại vào bộ đội rồi bị thương mùa hè năm
1972. Về làng tôi đi học sư phạm mẫu giáo. Năm nào tôi cũng về ngoại chạp mả.
Bà con bên ngoại cứ cặp đôi tôi với “anh thương binh Ngụy”, anh Chinh, chồng
tôi hiện chừ đó. Ban đầu tổ chức cũng can ngăn, sau vì chúng tôi quyết tâm nên
họ cũng chịu. Vậy là chúng tôi làm đám cưới. Vui nhất là ngày thương binh liệt
sĩ nào tôi cũng đẩy xe chồng tôi theo, vì sợ anh ấy buồn. Phái đoàn nào tặng
quà anh ấy cũng có một phần. Ai cũng tưởng vợ chồng tôi là đồng đội. Ông bà
linh lắm, cột hai đứa lại với nhau”.
Thằng Chinh tóc quắn, tôi nhớ ra rồi, thằng Chinh tóc quắn,
cháu họ tôi.
Chị cùng tôi ra sân, dưới am thờ, chiếc cối đá sứt tai được
đặt lên cái bệ ốp gạch trang trọng. Chị thắp nhang vái rồi quay sang tôi: “Trễ
tràng hết rồi cậu ơi. Số phận ông bà sắp đặt rồi. Chiếc cối đá dù sứt tai lại
được trở về với họ ngoại đây nì.Từ nay tôi sẽ gọi cậu bằng chú, Chú Thìn”.
_________________________________________
(1) O: Cô. Ở Trị thiên, em hoặc anh của cha đều được gọi
bằng O.
(2) Dượng: chồng của O hoặc dì. Chị của mẹ cũng được gọi
bằng dì
(3) Răng: sao. Ra răng: thế nào.
(4) Mệ: Bà nội, ngoại. Những bà ngang hàng với ông lại gọi
bằng Mụ.
(5) Gió Nam: Gió Nam Lào, thường xuất hiện từ tháng 5 đến
tháng 7 từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân. Gió từ biển vào gọi là gió Nồm.
(6) Mô: đâu.
(7) Chắc: Nhau, với nhau. Ví dụ hôn nhau người Quảng Trị gọi
là hun chắc . Nhưng một mình (alone) lại gọi một chắc.
(8) Rứa: thế.
(9) Mạ: mẹ.
(10) Nước phở: Đất cày ải, phơi cho khén rồi vào nước.
(11) Ri hè: Thế này.