LẠC VÀO THƠ TẢN ĐÀ
mâm gỗ đặt trên manh chiếu mộc
bát sành bát đất úp ngổn ngang
đũa tre cọc nằm vung vãi
nậm nọ be kia đến võ vàng
thịt heo nguyên miếng còn trên đĩa
ớt còn y trái lọ mắm tôm
rau diếp xanh rờn rau húng quế
thôi rồi đủ ấm mối tình con
nâng li thứ nhất mừng nguyên quán
một giải sông Đà nước Hắc Giang
Ba Vì, Tần Lĩnh bao la quá
Khê Thượng quanh năm cuộc sống còn
nâng tiếp li nhì mừng Sào Nam
đôi vai gánh nặng nặng vô vàn
Đông Du lớp lớp người thương nước
bồi bức dư đồ nước Việt Nam
một tiếp xin mời Cao Bá Quát
một vầng tinh đẩu vạn đời sau
ba hồi trống dục tròn danh tiết
yêu nước thương dân họa mất đầu
li tiếp thì ta uống với ta
danh vang bốn biển bác Tản Đà
trà rượu có dư nhà không có ?
đế đô sót lại tiếng cầm ca
LÁC ĐÁC HOA ĐÀO
lối thiên thai
rượu lạc trích tiên chán mớ đời
uống được hớp nào lời hớp ấy
phường tuồng nhìn lại có là bao ?
cụ Xương khổ vì rượu gái trà
cụ Cao giáo thụ Quốc Oai xa
còn ta trọn chiếu ngồi ngay giữa
một tô canh mướp một chén cà
giang sơn nghiêng ngửa cánh đồng không
chả ai biết trước gió lưng chừng ?
mảnh trăng hạ dãi treo lờ lửng
một chuyện tình chả khác ruộng bông ?
kéo bi thuốc lào qua điếu cày
ngẩn ngơ theo khói thuốc lào bay ?
còn thơ còn có người bán rượu
làm lão tản đây xỉn suốt ngày
CÁI HẠC
bay lên vút tận trời
thôi đành làm cù nèo dựt xuống thôi ?
bây giờ đúng là con hạc không cục cựa
nghĩ loay hoay một lúc đành bỏ vào nồi
hoa đào lác đác lối thiên thai
đọc thơ của cụ đấng thiên tài
một khay tài páo bàn tài xiểu
núi Tản sông Đà chả giống ai ?
cụ Nguyễn Khắc Hiếu làm thơ bút hiệu Tản Đà
một chai quế lộ hai con gà ?
chỉ nhường Tiên Điền Nguyễn Du chút đỉnh
Hắc giang, Bất Bạt chớn làng ta
thi hào số 1 của thế kỷ 20
thân thế tiên sinh dở khóc cười
đôi lúc nát lòng còn mếu nữa
Khê Thượng trăng rằm vằng vặc soi
ta mặc áo thụng vái tiên sinh bốn vái
đủ bốn trời nam bắc đông tây
rượu trắng rót đầy trong bát đất
uống lai rai với đĩa giả cầy
hoàn cảnh bây giờ thôi khó nói
thi đàn toàn rặt thơ Tây lai
quốc hồn quốc túy theo hạc chết
toàn một lũ theo đuôi hết bếp lại bồi ?
GIÓ THU
gió thu lá phong rụng cái vèo
Tản Đà lớ quớ đứng nhòm theo
trong nách còn cắp chai Văn Điển
tôm khô đậu lạc thuốc con mèo
dăm gốc cây phong thân bạc mốc
thi sĩ ngông đời đứng chèo queo
vài chiếc phong vàng đu theo gió
dỡn chơi thi bá buổi trống chèo
vài chiếc lá phong rơi hốc hác
vô tình tiếp mãi ngọn gió heo
lá rơi vô tội vương trên áo
vuốt mãi thân ta một kiếp nghèo
ở không nốc cạn dăm hớp rượu
hút thuốc thổi thêm đam sương mù
lơ đãng bên hồ hàng cây sấu
thay màu trời vớ vẩn vào thu
thời xưa lỡ vận bao thi sĩ
thời nay thưa thớt chốn văn chương
đời trước cả một bầy đói rách
đời nay cả một lũ đứng đường
ĐỜI ĐỜI
đời cua cua máy, cáy cáy mò
đời thò lò thò lò quay ?
đời cụ Tản Đà say cả ngày
mặc kệ thiên hạ ngưỡng mộ
mặc xác thiên hạ cười
cười dơ mười cái răng ?
cả hai hàm răng ?
còn tiền còn bạc còn ly
còn rượu còn mực ngồi lỳ uống chơi ?
thơ hay đọc đã cái đời
sông Đà nuí Tản con ngươì tài hoa ?
ồ thì ra bác Tản Đà
thơ văn bác soạn trời già thích ngay
rượu Văn điển mặt đỏ gay
thêm túi đậu lạc thơ ngày thơ đêm ?
con cóc trong hang con cóc nằm ngủ
thi sĩ và cái hũ ?
cầm cái ly uống hoài
chờ con cóc nhảy ra !
con cóc không ra
thi hào uống xong !
quăng hũ quăng ly ! đi thôi !
MÂY NÚI
núi mọc trên đất mây bay ngang trời
gặp nhau đôi chút, bèo lặng lờ trôi
núi từ xưa trụ đó nhưng mây ngược rồi xuôi
núi mầu xanh biêng biếc, mây mầu sắc đổi hoài!
CHU VƯƠNG MIỆN