LOẠI
TRÀ – DANH TRÀ
I. Các loại trà
Chúng ta có thể tóm lược rằng có rất nhiều loại trà,
nhưng tựu chung có thể dễ dàng phân làm ba loại: Trà xanh, trà đen và loại
trung gian, cả ba loại đều chỉ khác nhau ở chặng lên men/ cách ủ (Oxidation) . Ủ
sơ thì cho loại trà xanh, ủ kỹ thì là loại trà đen, ủ vừa thì cho loại trà
trung gian: như loại Ô Long, trà vàng Thiết Quan Âm… Trà nguyên thủy vẫn là
màu lá xanh chỉ trừ giống Lạp Mộc trà mọc ở Phúc Kiến mang màu vàng.
Trà xanh gọi là Lục trà hay Thanh trà; trà đen:
Hắc trà hay Hồng trà.
– Loại Trà xanh: điển hình danh tiếng là: Trà Long
Tĩnh, “Làm trai biết đánh Tổ Tôm, uống trà Long Tĩnh ngâm nôm Thúy Kiều”. Các
loại trà xanh khác như Sư Phong, Bạch Vân, Bảo Vân, Tư Duẩn, Thọ Mi (Trung Quốc)
hay Thanh Trà, Thiên Vụ, Tùng Bách Thanh (Đài Loan) hiện đang có trên thị trường.
Trà xanh là loại trà thuần dùng lá trà không phụ gia
gì khác và không cho lên men hay hạn chế sự lên men tối đa, chỉ phơi khô rồi cất
giữ. Loại trà này được dùng rất phổ biến hiện nay vì ngoài hương vị trà mộc còn
giữ nguyên, các nghiên cứu khoa học cho thấy nó rất có lợi cho sức khỏe. Nó có
mặt trong cửa hàng của Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước
khác. Các loại trà xanh danh tiếng có thể kể ra: Long Tỉnh Trà ở Hàng Châu,
Long Đỉnh Trà của Chiết Giang, Bỉ Lộ Xuân Trà của Hàng Châu xưa là một loại trà
tiến vua liên quan đến Trinh Nữ Trà, Tín Dương Mao Tiêm Trà của Hà Nam, Hoàng
sơn Mao Phong của tỉnh An Huy, … Những thứ trà xanh danh tiếng của Nhật có thể
kể đến là: Nihoncha (Nhật Bản Trà), Ryokucha (Lục Trà), Gyokuro (Ngọc Sương
Trà) … Trà sen, trà lài của Việt Nam cũng là loại trà xanh.
– Loại trà đen: là loại trà được để cho oxy- hóa hoàn
toàn. Trà đen có vị đậm và nhiều caféine hơn các loại trà khác, và ở Trung Hoa
người ta gọi là hồng trà vì sau khi được đem pha hãm trà thì nước và bã trà dưới
đáy hiện ra màu đỏ, chính vì thế mà đã thành tên là Hồng Trà. Kỳ Môn Hồng
Trà là loại này.
Hiện nay, Âu Mỹ chỉ dùng trà đen (Anh ngữ quen gọi là
Black Tea, Hán ngữ gọi là Hồng Trà). Trái lại, Á Đông gần như chỉ dùng trà xanh
(Thanh Trà) và Ô Long.
– Loại Ô Long quen thuộc nhất là Thiết Quan Âm, Thiết
La Hán, Thủy Tiên, Tước Thiệt, Long Phụng, Long Viên Chu, Chân Long (Trung Quốc)
hoặc Động Đình, Minh Đức, Thiết Quan Âm, Thủy Tiên, Ô Long, Thiên Vụ của Đài
Loan đều có bán.
Ô Long Trà: là loại trà gốc Phúc Kiến có màu nằm giữa
trà xanh và trà đen (nghĩa là bị oxy hóa khoảng 10-40% tùy chất lượng) rất được
người Trung Hoa ưa chuộng và dùng đơn giản đem hãm với nước nóng rồi dùng. Lá
trà này khi hái về đem phơi cho héo, nhào trong rỗ tre để tăng bề mặt oxy hóa,
phơi đảo cho thật khô, sấy và gia hương liệu.
Do được chuộng nhiều ở Châu Á nên nhiều loại trà Ô
long có mặt trên thị trường. Người ta sơ bộ thấy có một số trà Ô long mang tên
như sau: Đại Hồng Bào Trà một loại trà xưa kia dùng tiến vua, Thủy Kim Quy Trà,
Thiết La Hán Trà, Nhục Quế Trà … Trà Thiết quan Âm nói bên dưới cũng là một loại
trà Ô long.
II. Truyền thuyết về các danh trà tàu
Không chỉ có huyền thoại để thu hút người khác, người
Trung Hoa có biệt tài biến hóa sản phẩm của mình để thu hút khác hàng. Rất nhiều
loại trà được ra đời với cách chế biến cầu kỳ; trong số đó có một số danh trà
cũng được huyền thoại hóa thêm màu sắc thần bí.
1. Long Tỉnh Trà
Trà Long Tỉnh còn là Ngự trà, đứng đầu trong
Thập đại danh trà tàu. Truyền thuyết gắn liền với trà Long Tỉnh như sau:
Trà Long Tỉnh Tây Hồ gắn với một câu truyện rất thú vị.
Hoàng Đế Càn Long đời nhà Thanh ( trị vì 1736 – 1795 ) tới Giang Nam, dừng chân
lại Tây Hồ thưởng thức trà Long Tỉnh ở nơi này.Vua Càn Long đã thấy được tuyệt
kỹ tuyệt vời của những cô thôn nữ hái chè nơi đây, nên đã tham gia học cách hái
chè; cùng lúc đó tùy tùng của Càn Long tới thông báo là Thái Hậu bị bệnh nặng,
Càn Long vội vàng trở về Bắc Kinh, tiện tay đút luôn những búp trà vừa hái vào
trong túi áo. Bệnh tình của Thái Hậu không có gì đáng ngại, chỉ là do ăn uống
bị chướng bụng, tiêu hóa kém, thêm phần nhớ con trai vì đó mà cơ thể cảm thấy mệt
mỏi, không khỏe.
Khi Càn Long về, Thái Hậu thấy con trai nên đã bớt đi
một nửa bệnh tình. Bà ngửi thấy trên người con trai mình có mùi gì đó thơm dịu
nhẹ, liền hỏi là thứ gì? Càn Long liền lấy trà trong túi ra pha, mùi vị của trà
tỏa lên rất thơm; sau khi hoàng thái hậu uống vào bệnh tình hoàn toàn hồi phục,
sức khỏe trở lại như xưa. Điều này làm cho vua Càn Long rất vui, nên đã ban sắc
lệnh, sắc phong cho 18 cây trà trước Long Tỉnh Tự ở Tây Hồ là “Ngự Trà”. Về
sau được vua Khang Hy phong là Hoàng trà, loại trà biểu trưng cho hoàng đế. Từ
đó trà Long Tỉnh càng được nổi tiếng khắp nơi, được nhiều người biết đến là loại
trà thơm ngon. Cũng vì búp trà được để trong túi nên đã ép dẹp, tạo thành mặt 2
mặt phẳng, vì thế mà Long Tỉnh Tây Hồ cũng được người dân nơi đây chế biến, và
tạo thành hình tương tự.
2. Oolong Trà hay Ô Long Trà
Trà Oolong (còn được gọi Ô Long) là một loại trà có xuất
xứ từ vùng núi tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa. Nó bị oxy hóa – Oxidation- khoảng
5-70% tùy từng loại khác nhau. Vì vậy mà màu sắc của nó nằm giữa trà xanh và
trà đen và rất được người Trung Hoa ưa chuộng. Hình dáng Trà Oolong : Búp trà
thường được cuộn thành viên tròn lớn, có loại còn để thừa ra cuống trà tựa như
đuôi của “rồng”
– Truyền thuyết kể, do một người trồng trà thấy có con
rồng đen từ giống cây trà này bay lên, nên từ đó đặt thành tên.
– Một truyền thuyết khác kể rằng trà Oolong ban đầu
được người Trung Quốc gọi là “wulong” hay “rồng đen”, bởi trong quá trình chế
biến, lá trà đen được xoắn lại thành hình dạng giống như con rồng.
– Một câu chuyện khác kể về một người trồng trà tên là
Wu Liang (sau này được gọi lại Wulong) Truyền thuyết kể lại rằng vào năm 1725
có một người đàn ông trồng trà ở huyện An Khê, tỉnh Phúc Kiến với biệt danh là
Ô Long (vì anh ta đen nên được mọi người gọi là ô long). Khi người này đang thu
hái trà, thì ông nhìn thấy một con nai và ông đã quyết định đi săn bằng được
con nai này thay vì tiếp tục thu hái và chế biến trà đã thu hoạch.Cuối cùng ông
cũng bắt được con nai và mang về làm thịt và tổ chức ăn uống. Hôm sau, ông mới
nhớ ra rằng ông cần phải chế biến trà đã được thu hoạch từ ngày hôm trước.
Nhưng những lá trà đó đã bị oxy hóa một phần, và điều đặc biệt là trà đã tỏa ra
một thứ hương thơm kỳ lạ. Vì vậy, ông ấy đã quyết định không đem đi chế biến trà
như mọi khi nữa. Và mang vào pha thử một ấm, thật ngạc nhiên khi thấy nước trà
sau khi pha có mang một hương vị ngọt ngào mạnh mẽ hoàn toàn mới lạ, mà không
có bất kỳ vị đắng nào như trà thường được sản xuất trước đây.Sau đó anh ta suy
nghĩ và nghiên cứu, thử các phương pháp chế biến khác nhau và cuối cùng cũng chọn
được phương pháp chế biến trà cho chất lượng thật tuyệt vời là làm héo, lắc tạo
màu xanh lá cây, để lên men tự nhiên từ 5-70%, sau đó cho vào sao để ngăn quá
trình lên men. Như thế là đã có được một loại trà chất lượng tuyệt vời rồi. Vì
vậy loại trà mới này được đặt tên theo biệt danh của ông, và từ đó nó được gọi
là trà Ô long.
Do nó có những hương vị lạ, đặc biệt nên rất được ưa
chuộng ở Châu Á. Vì vậy, dần dần nó xuất hiện thêm nhiều loại trà Ô long có mặt
trên thị trường. Hiện nay trên thị trường có một số loại trà khác nhau cũng được
liệt kê là trà Ô long như: Trà Đại Hồng Bào một loại trà xưa kia dùng tiến vua,
Trà Thủy Kim Quy, Thiết La Hán Trà, Nhục Quế Trà … Trà Thiết quan Âm nói bên dưới
cũng là một loại trà Ô long.
Trà Ô long có màu sắc nằm giữa trà xanh và trà đen và
rất được người Trung Hoa ưa chuộng. Cách sử dụng trà Ô Long rất đơn giản, đem
hãm với nước nóng rồi dùng.
3. Thiết Quan Âm Trà
a. Đặc điểm
– Trà Thiết Quan Âm thoạt nhìn thì có vẻ khá giống với
Trà Ô Long và thường bị nhầm lẫn với Trà Ô Long. Thực chất Trà Thiết Quan Âm vẫn
được xếp vào nhóm trà xanh vì trà Thiết Quan Âm có độ oxy hóa thấp, những lá
trà đã được chọn và hái, nó sẽ được để cho tự oxy hóa từ 5% đến 25%, giúp cho
hương vị của trà được thơm ngon, hấp dẫn mùi nhẹ nhàng của hoa lan. Còn trà Ô
Long thì độ oxy hóa thường nằm trong khoảng 30 – 40%. Nên Trà Thiết Quan Âm khi
pha ra còn mang dư vị của trà xanh khá nhiều.Thiết Quan Âm là tên một danh trà
trong thập đại danh trà nổi tiếng Trung Hoa
Một điểm đơn giản để phân biệt trà Thiết Quan Âm với
trà Ô Long nữa là Thiết Quan Âm không có cọng trà mà chỉ có lá. (Trong khi Trà
Ô Long sẽ gồm một búp và 2-3 lá hé mở, cọng thấy rất rõ).
– Trà Thiết Quan Âm còn gọi là trà vàng – loại trà nằm
giữa trà xanh và trà đen, đây là một trong những loại trà rất tốt cho sức khỏe
thuộc nhóm trà Ô Long. Trà Thiết Quan Âm có hương vị đậm đà, dịu ngọt, mùi thơm
tự nhiên, sắc vàng đẹp mắt như hổ phách. Chính nhờ hương vị thơm ngon và đậm
đà, nên trà Thiết Quan Âm được mệnh danh “bảy nước còn dư hương” nghĩa là có thể
pha 7 lần nước nhưng vẫn còn mùi thơm. Trà Thiết Quan Âm còn được biết đến là một
trong “thập đại danh trà” nổi tiếng của Trung Hoa.
b. Nguồn gốc và truyền thuyết về trà Thiết Quan Âm
– Trà Thiết Quan Âm có nguồn từ trấn Tây Bình, huyện
An Khê, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa với hơn 200 năm lịch sử. Tại An Khê vẫn còn
lưu truyền một câu chuyện về loại trà này. Chuyện kể rằng vào đời nhà Thanh năm
vua Càn Long, ở trấn Tây Bình, huyện An Khê có một ngôi đền bị bỏ hoang, bên
trong vẫn còn bức tượng bằng sắc của Quan Âm Bồ Tát. Lúc bấy giờ có người nông
dân tên Wei hàng ngày trên đường ra đồng ruộng làm việc ông vẫn đi ngang đây và
luôn suy nghĩ muốn làm gì đó để cải hiện ngôi đền.
Là một nông dân nghèo, Wei không có phương tiện để sửa
chữa đền thờ. Một hôm, ông ta mang một cây chổi cùng một số hương nhang ở nhà đến
để quét dọn sạch sẽ và thắp hương để tỏ lòng thành kính với Quan Âm Bồ Tát, và
ông đã làm điều này hai lần một tháng trong nhiều năm liền.
Vào một đêm nọ, trong lúc đang ngủ Wei mơ màng nằm mộng
thấy Quan Âm Bồ Tát, người nói với ông về một hang động phía sau đền thờ, nơi
có kho báu đang chờ đợi. Sáng hôm sau, ông đến phía sau đền thờ và tìm thấy
hang động, Wei lấy kho báu và chia sẻ chúng với người khác. Trong hang, ông còn
tìm thấy tìm thấy cây trà, Wei nhanh tay hái một ít lá trà về chế biến.
Sau khi thưởng thức hương vị đậm đà, dịu ngọt của loại
trà lạ đã thu hút ông, Wei liền quay lại hang bứng cả cây trà mang về để trồng.
Thời gian sau, trà mọc nhiều, cành lá xum xuê, tươi tốt. Ông cho hàng xóm xung
quanh giống trà để trồng và sản xuất. Vì thấy lá trà này khi lên men có màu đen
như sắt thép, nặng hơn những lá trà thường, và được Phật Bà Quan Âm gia hộ báo
mộng nên ông đặt tên cho trà là Thiết Quan Âm. Từ đó trà Thiết Quan Âm trở nên
nổi tiếng khắp thiên hạ và là loại đồ uống được các hoàng đế ưa dùng. Theo thời
gian, Wei và hàng xóm nhờ sản xuất và buôn bán trà Thiết Quan Âm mà trở nên khá
giả thịnh vượng. Ngôi đền bỏ hoang ngày nào đã được sửa chữa và trở thành một
ngôi chùa xinh đẹp.
– Truyền thuyết thứ 2: Tương truyền vào đời vua Càn
Long nhà Thanh, vùng đất này có một người chuyên trồng và chế biến trà tện là
Ngụy Âm. Ngụy Âm là người rất sùng kính Quán Thế Âm Bồ Tát, sáng nào ông cũng
dâng lên Phật bà ba chén trà liên tục suốt 10 năm trời. Một đêm ông nằm mơ thấy
Quan thế Âm dẫn lên một khe núi chỉ cho một cây trà. Sáng hôm sau, thức dậy ông
theo sự ứng mộng lên núi tìm được cây trà giống hệt trong mộng. Ngụy Âm bứng cả
cây về trồng trongvườn nhà, vài năm sau cây tươi tốt ông thu hái chế ra một thứ
loại trà ngon tuyệt vời, khi đóng bánh cứng nặng và có màu đen như sắt, sợi trà
cong xoắn, cho nước hãm màu màu xanh lục, hương vị thơm ngon hơn hẳn các thứ
trà khác ở địa phương. Ông đặt tên là trà Thiết Quan Âm và từ đó trở thành một
danh trà khét tiếng trên thế giới.
Trà Thiết Quan Âm được chia ra làm 3 loại là Thanh
Hương, Nùng Hương và Trần Hương. Trà Thiết Quan Âm Thanh Hương được lên men rất
ít và chú trọng vào mùi thơm hơn là vị của trà. Còn Nùng Hương thì chú trọng
vào cả vị lẫn mùi thơm của trà. Trần Hương thì được lên men nhiều nhất nên vị của
nó không còn vị trà xanh nữa.
4. Thiết La Hán Trà
Thiết La Hán Trà là dòng trà cao cấp được các nghệ
nhân chế biến và lưu trữ qua nhiều năm theo cách riêng biệt từ những lá trà Thiết
Quan Âm.
Ra đời từ thời Càn Long khoảng năm 1782 cho đến nay,
trà Thiết La Hán đã có lịch sử hơn 200 năm tuổi.
Truyền thuyết về tên gọi trà Thiết La Hán có 3 tích:
– Tích thứ nhất: Thời đấy, có vị thương nhân họ Thi
Thái Thành có mở lập một trà điếm tại huyện Huệ An, tỉnh An Huy, nổi tiếng nhất
với dòng trà Thiết La Hán. Mặc dù đã có hai cuộc dịch bệnh rất lớn ở huyện Huệ
An từ năm 1890-1931, những bệnh nhân đã được cứu chữa khi dùng trà Thiết La Hán
của vị thương nhân họ Thi này, nên trà được đặt tên như là một vị La Hán sống cứu
nhân độ thế.
– Tích thứ hai: Ở Vũ Di Sơn, chùa Huệ Uyển, có vị tăng
nhân tự là Tích Huệ, người thập phương tới thăm rất thích uống trà đàm đạo với
vị tăng. Vị tăng cơ thể vạm vỡ rám nắng, tướng mạo đẹp đẽ như vị La Hán, cho
nên những người này gọi ông là Thiết La Hán. Một ngày nọ, vị tăng phát hiện một
số cây trà ở gần chùa, cây thẳng và vươn cao, các nhánh cây dày và xám vàng, lá
cây toả ra mùi hương thơm đặc biệt. Ông hái các lá non và đem về nấu trà mời
khách, mọi người thấy ngon hỏi nguồn gốc, và bởi trà được phát hiện bởi vị tăng
nên đặt theo tên ông là Thiết La Hán.
– Tích thứ ba: Tây Vương mẫu mở tiệc, mời 500 vị La
Hán đến dự. Hôm đấy, vị La Hán chưởng quản về cây trà đi tiệc về quá say, khi
đi qua Huệ Uyển Khanh thuộc khu Vũ Di Sơn, giống trà quý vốn để trong mình bị
đánh rơi. Một người nông dân già vô tình nhặt được. Sau được vị La Hán này báo
mộng và dặn đem đi trồng thành cây trà, hương vị tuyệt vời, có thể chữa được
bách bệnh, nên trà được đặt tên là Thiết La Hán Trà.
5. Thanh Nữ Trà hay Trinh Nữ Trà
Truyền thuyết gắn liền với Trinh Nữ Trà:
– Thanh Nữ Trà hay Trinh Nữ Trà: là loại trà rất nổi
tiếng với hương vị thơm ngon và cách chế biến rất cầu kì và độc đáo. Quá trình
thu hái trà là phải sử dụng các cô gái đồng trình: Người ta chọn ra những trinh
nữ tuyệt đẹp, từ 15-18 tuổi, cho tắm gội bằng nước thơm, rồi mặc quần áo rộng
và buộc túm ống tay, ống chân leo lên đồi cao hái trà. Lá trà hái được dồn
cất vào trong lớp áo rộng thùng thình đã được buộc kín ống chân, ống tay nói
trên. Khi mặt trời lên, mồ hôi những cô gái này thấm vào trà nên gọi là Trinh nữ
trà.
Loại trà này luôn được liệt vào trong top đệ nhất danh
trà, cạnh những cái tên đình đám khác ở Trung Hoa như Long Tỉnh, Thiết Quan Âm,
Trùng Điệp… Có tên gọi khác là Bỉ Lộ Xuân, loại trà này không chỉ nổi tiếng bởi
vị thơm ngon, thuần khiết mà còn do phương thức chế biến cầu kỳ và độc đáo.
– Lại có truyền thuyết xuất xứ gắn với Trinh Nữ Trà
như sau: Huyền thoại kể rằng một vị vua đời Đường rất ham mê uống trà và rất
sành điệu mùi vị trà. Một buổi sáng, nhà vua ra lệnh cho người tỳ nữ, lấy trà vừa
đưa vào nhà kho đêm qua, và pha cho nhà vua, sau khi thưởng thức vị trà này
xong, nhà vua vô cùng hài lòng vì trong đó một hương vị mới, thơm ngon lạ, hoá
ra, số trà này đã được mang “mùi vị” của chính người tỳ nữ pha trà, mà đêm hôm
trước, vì trời đột nhiên trở lạnh, nàng đã vào ngay đống trà để ngủ cho ấm. Vì
nàng đích thực là còn “con gái” nên trà này đã được đặt tên là “Trinh Nữ Trà”.
Trà đã được ướp với hương vị thơm tho của da thịt và mồ hôi người con gái đồng
trinh. Từ đó vua cho tuyển thêm trinh nữ lo việc hái trà và ủ trà như đã nói,
dĩ nhiên việc tuyển chọn mùi hương tự nhiên rất khe khắc.
– Một truyền thuyết nữa: Trinh Nữ Trà, theo Hoàng
Duy Anh đăng trong tạp chí Chọn Lọc, là loại trà đặc biệt của Nhật. Theo các
nhà viết sử thì trà này xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 16, tại đảo Oki Shima.
Thuở đó có một Sứ quân cai quản đảo này, ông là người
sành uống trà. Một hôm đi ngang qua trái đồi, ông thấy có cây trà hoang mọc, liền
cho gia nhân hái búp lá về đầy một sọt. Về nhà ông cho đem vào bếp, pha uống
thử thấy khá ngon, ông bèn cho để vào một góc bếp để pha uống dần. Một hôm cũng
trà ấy, ông uống sao cảm thấy mùi vị rất lạ và rất ngon, khác hẳn mọi ngày. Ông
thân hành xuống bếp tìm hiểu, mới biết đêm vừa qua, con a hoàn làm việc mệt nhọc
ngủ luôn trong bếp, gần sọt trà; không biết vì sao sọt trà lại đổ ra và nó đã nằm
ngủ trên đống lá trà. Ông khám phá ra, chính thân con a hoàn là hương vị đã ướp
trà thêm thơm ngon. Sau đó ông sai gia nhân hái thêm trà và cho con a hoàn ngủ
trên đống trà, tạo nên hương vị đặc biệt. Từ đó có Trà Trinh Nữ.
5. Trảm Mã Trà
– Trảm Mã Trà là loại trà mọc hoang lưu niên trên núi
cao Vu Sơn tỉnh Tứ Xuyên, có tên cỏ trà Phương chi. Loại trà này có hương vị
tuyệt vời, nhưng nó lại mọc nơi rất hiểm trở của núi Vu Sơn, mỗi năm nảy lộc một
lần kéo dài một tháng có tiết trung thu rồi chết. Người sơn cước bản địa cũng
gian nan mới hái được loại trà này.
Để dễ dàng việc thu hái trà thì người ta đã bỏ đói
những con ngựa 2 ngày liền, sau đó chúng được thả rong, chạy vào trong rừng
trà, đầy những búp non buổi đầu xuân. Chúng sẽ ăn những búp trà ngon lành cho tới
lúc bụng no căng. Khi ngựa đã ăn no, tốp mã phu tập trung chúng lại dẫn xuống
khe suối quanh núi. Nước suối ở đây do xác trà rụng xuống nát mủn, nước đặc sánh,
màu đen nên được gọi là suối Ô Long. Ngựa vục đầu uống nước suối Ô Long thoả
thích.
Sau đó, các mã phu cưỡi ngựa trở về điểm xuất phát. Họ
cho ngựa đi nước kiệu đều đều, chậm rãi. Thời gian đi đường khoảng một ngày, đủ
để búp trà trong bụng ngựa thấm với nước suối Ô Long lên men. Về đến nơi đã định,
mã phu lập tức giết bầy ngựa, mổ bụng moi trà từ bao tử của ngựa ra,đem đến lò
sao tẩm chế biến. Trà đã được ngựa nhai kỹ khỏi phải vò nát, nước suối thấm từ
trong bao tử giúp trà giảm độ chát. Trảm mã trà vì vậy có hương vị độc đáo, độ
chát vừa phải, thơm ngon.
– Truyền thuyết thứ hai cho rằng: Trong một buổi yến
tiệc của cung đình dưới triều đại Từ Hy Thái Hậu, khi người đầu bếp sắp sửa pha
trà, mới phát hiện ra một con ngựa sút chuồng đã ăn sạch tất cả Trà; không còn
cách nào hơn là họ giết ngay con ngựa, mổ bụng lấy trà ra pha cho Thái Hậu và
các quan dùng; không ngờ hương vị trà thơm ngon đặc biệt, được Thái Hậu khen
thưởng. Thế là từ đó có Trảm Mã Trà. Dựa vào điều phát hiện lý thú trên,
ở các vườn trà, nhất là vùng Vũ Di sáng sớm người ta thả ngựa ra cho ăn
lá trà; khi nó ăn no rồi chặt đầu, mổ bụng lấy trà ra sao chế.
Trảm Mã Trà là món thức uống Từ Hi Thái Hậu thiết đãi
các sứ thần Phương Tây trong yến tiệc mừng Tết Nguyên Đán 1874, nó còn có tên
là Phương Chi thảo.
(Ngoài
món trà trảm mã mà Từ Hi Thái Hậu thết đại các sứ thần, còn có sáu món vừa
công phu vừa kỳ quái là: Sâm Thử, Sơn Dương Trùng, Tượng Tinh, Khổng Noãn, Não
Hầu, Trư Vương).
6. Bạch Mao Hầu Trà
– Bạch Mao Hầu Trà: Bạch Mao Hầu là tên dùng chỉ một
loài vượn lông trắng sống ở vùng núi Vũ Di, Phúc Kiến. Loài vượn này chuyên hái
lá trà non trên núi để ăn nên tuổi thọ của chúng rất cao. Biết được điều này,
dân trong vùng nuôi loài khỉ này để sai khiến chúng lên núi ăn trà. Vượn ăn trà
không nuốt vào bụng ngay, mà dồn vào hai túi bên má. Khi về đến nhà chủ mới moi
hai túi ấy ra lấy trà. Trà thấm chất dịch tiết trong túi đó nên rất thơm ngon
và bổ dưỡng; trà này lại quý vì không thể sản xuất được nhiều. Người ta tin là
uống loại trà này giúp tăng tuổi thọ vì nhiều con Bạch Mao Hầu phục vụ hai ba đời
chủ mà vẫn còn khỏe mạnh nhờ ăn lá trà này.
Tên ngọn núi Vũ Di liên quan đến truyền thuyết
trà Đại Hồng Bào.
– Trà Đại Hồng Bào danh tiếng của tỉnh Phúc Kiến cũng
có một giai thoại. Thời vua Khang Hy nhà Thanh có một học trò nghèo lên kinh ứng
thí; sau khi vượt ngọn núi Vũ Di sơn thì đói và mệt ngất xỉu. May nhờ có một vị
sư đi ngang cho uống một thứ nước nên chàng sĩ tử này khỏe lại. Kỳ thi đó chàng
thi đậu và được bổ làm quan. Nhớ nghĩa cũ chàng về nơi thọ nạn tìm kiếm nhà sư
đó. Trong câu chuyện tạ ơn, chàng được biết đã được cứu mạng nhờ một loại trà.
Xin được một ít, chàng hồi kinh nhậm chức và tiến vua lá trà đó. Đúng dịp đó
hoàng thái hậu lâm bệnh nặng, các ngự y đều bó tay. Vua cho dùng thử lá trà đó
thì thấy hiệu nghiệm và bệnh tình dần dần bình phục. Vua cảm kích ban thưởng
cho một chiếc áo bào đỏ và từ đó trà này mang tên Đại Hồng Bào (Chiếc Áo Đỏ).
Trong câu chuyện này có nhắc đến núi Vũ Di Sơn, tên
núi này cũng là một giai thoại. Vũ và Di là tên hai anh em bán hết tài sản, dọn
nhà vào trong núi để đi tìm và thưởng thức trà quý. Hai anh em vào vùng núi này
tìm ra loại trà độc đáo, sau này được vua Minh tặng cho áo bào đỏ -Hồng Bào
như đã kể ở trên. Sau để nhớ công người Trung Hoa lấy tên hai ông đặt tên cho
núi là Vũ Di, và loại trà này đặt tên là Trà Vũ Di Sơn.
7. Kỳ Môn Hồng Trà
Kỳ Môn Hồng Trà là loại trà đen nổi tiếng của địa danh
Kỳ Môn thuộc tỉnh An-Huy, xuất hiện đầu tiên vào năm 1875. Hiện nay người ta
phân biệt có mấy loại Kỳ Môn Hồng Trà là: Kỳ Môn Mao Phương, Kỳ Môn Tân Nha, Kỳ
Môn Công Phu và Kỳ Môn Hào Nha. Loại trà cũng mang tên Kỳ Môn nhưng không xuất
xứ từ vùng Kỳ môn là Hồ Bắc Kỳ Môn. Hồng trà sủi bọt là một sản phẩm trà đen của
Đài Loan xuất hiện hồi thập niên 80 thế kỷ 20. Loại trà này có cho thêm sữa hay
một chất phụ gia mang tính nhũ tương, khi lắc lên bọt lâu tan nên thành tên.
8. Trà Phổ Nhĩ
Trà Phổ Nhĩ là loại trà đen danh tiếng có lịch sử rất
xa xưa cũng được gọi chính danh trà đen tại Trung Hoa, xuất xứ từ vùng Phổ Nhĩ,
Vân Nam, nên đặt thành tên. Nhưng loại trà này cũng được sản xuất ở những nước
sát Vân Nam như Lào, Việt Nam, Myanma. Nó ra đời cùng với con đường buôn trà
“Trà Mã Cổ Đạo”. Trà Phổ Nhĩ là loại trà sản xuất bằng cách lên men trà xanh đã
khô, vị giống như đất, có thời gian bảo quản rất dài (trung bình 1-5 năm, có
khi đến 50 năm) và thường được coi là thuốc hơn là thức uống, vì được cho là
làm giảm cholesteron, acid béo no và giúp giảm cân.
Trà phổ nhĩ được chia làm hai loại: loại tươi gọi là
mao trà (hay còn gọi là sinh trà hay thanh trà); loại chín gọi là thục trà là
mao trà qua chế biến lần nữa bằng cách cho lên men. Theo hình dáng Trà phổ nhĩ
được chia làm các loại sau: bính trà, đà trà, thuẫn trà, phương trà, khẩn trà,
kim qua trà …
9. Trùng Diệp Trà
Ngày xưa, vào đầu Xuân lá trà non mọc, các Thiền sư, đạo
sĩ sành uống trà đến núi Ly Sơn, thuộc huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây, Trung
Hoa tìm các lá trà non bị sâu làm tổ, mang về chế biến, đặt tên là Trà Trùng Diệp.
Còn nếu gặp phân của sâu ăn lá trà quí đem chế biến, được đặt tên là Trà Trùng
Xí. Trà này rất ngon.
……..
. Nhận xét:
Ta thấy truyền thuyết của 3 loại trà Bạch Mao Hầu
Trà, Trảm Mã Trà và Trùng Diệp Trà cũng tương tự như bên Cà- phê có
Cà-phê cứt chồn, một loại cà- phê hảo hạng, rất đắt tiền: Con chồn
hương lựa ăn những trái cà-phê chín ăn; khi trái vào bụng, nó chỉ tiêu hóa lớp
vỏ ngọt bì ngoài, hột bên trong vẫn còn nguyên. Hột cà- phê, trộn với
dịch chất trong bao tử chồn rồi theo phân ra ngoài. Mỗi sáng, người ta
vào vườn cà- phê góp nhặt các phân chồn nầy, rửa sạch lấy hột, rồi sao
ướp rang thành loại cà-phê thượng hảo hạng: Cà- phê cứt chồn. Các loại
trà kể trên cũng giống vậy, lá cũng được trộn với dịch chất trong
bụng ngựa, hoặc sâu hay trong túi má của khỉ bạch mao.
(Còn tiếp nhiều kỳ)
Nguyên Lạc