TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Chúc Mừng Năm Mới
Wednesday, July 22, 2020
CHUYỆN VUI THƯỜNG NGÀY: CHỮ VÀ NGHĨA - Đình Hy
CHUYỆN
VUI THƯỜNG NGÀY: CHỮ VÀ NGHĨA
Đình Hy
Trong cuộc
sống thường ngày, ngôn ngữ có chức năng giao tiếp, biểu đạt những ý nghĩ của chủ
thể ra khách quan bên ngoài để truyền thông tin với ý định, mục đích nào đó. Đó
là sự kỳ diệu ngôn ngữ của muôn loài, (ở loài người ban đầu là tiếng nói và sau
đó đạt một trình độ nhất định là chữ viết hình thành).
Vậy là chúng ta có một thế giới ngôn ngữ. Khi đạt mức
tinh luyện những gì trong thế giới ngôn ngữ muôn màu ấy là quá trình trau dồi,
sáng tạo hình thành văn hay chữ tốt, thơ ca, thành ngữ, tục ngữ. Trường hợp tiếng
Việt của dân tộc, với tư cách là ngôn ngữ quốc gia, tồn tại vốn từ thuần Việt,
tiếng Hán – Việt, tiếng Hán, tiếng dân tộc thiểu số, vay mượn từ nước ngoài
khác từ hệ Latinh, Slavơ, hoặc Ấn Độ, Ả Rập…
Chuyên đề này nói về một số thói quen nói và viết tiếng
Việt trong cuộc sống, nếu để ý kỹ sẽ thấy có một số trường hợp sử dụng theo
thói quen, ngộ nhận… mà khi tìm tầm nguyên sẽ thấy sai, thấy rối, có khi trở
thành hài hước… Những hiện tượng này cũng có thể là chuyện bình thường, chuyện
vui trong thông tin giao tiếp nhưng có khi làm mất đi sự trong sáng tiếng Việt.
1. Dùng thừa chữ: Ví dụ, ngày xuân, ngày gặp mặt, tổng
kết, hội nghị… hầu hết diễn giả đều thường có câu chúc quen thuộc: “Chúc mọi
người bình yên, sức khỏe, an khang, thịnh vượng!”. “Thịnh vượng” là quá đúng rồi,
thậm chí trong “khang” còn có yếu tố “thịnh vượng” nhưng chấp nhận từ độc lập,
còn “an khang” trong câu này là thừa thải, trong trường hợp này “an” có nghĩa
là bình an, “khang” có nghĩa là khỏe mạnh, vì vậy đã chúc: “bình yên, sức khỏe”,
không cần thêm “an khang”, ngược lại dùng “an khang” trong câu “an khang thịnh
vượng” thì không cần nói thêm “bình yên, sức khỏe”; trường hợp cụm từ: chúc
“giàu sang, phú quý” cũng tương tự thế.
2. Dùng chưa chính xác từ cặp đôi Việt, Hán – Việt: do
không tường tận, nên dẫn đến hài hước, râu ông nọ cắm cằm bà kia. Nhiều người,
kể cả học giả nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ thường vấp phải, thống kê trong các
sách xuất bản, văn bản khoa học của họ, tần số sai loại này rất cao. Ví dụ:
không chỉ người đọc bình thường mà nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, văn
hóa, dịch giả cũng bị vấp phải: để chỉ một tảng đá có khắc chữ, họ thường dùng
dày đặc trong công trình nghiên cứu từ “bia ký”. Viết vậy là sai, trường hợp
này chỉ có 2 cách dùng đúng: “bi ký”, hoặc “văn bia”. Đơn giản vì “bi ký” nghĩa
là “văn bia”, không có chuyện dùng chéo “bia ký”. Ta thường nghe, thạch bi, đó
là bia đá, Thạch Bi sơn là núi Đá Bia ở đèo Cả; Tây du ký, nhật ký, bút ký… ký
đó là văn ghi chép. Hoặc “khắc cốt ghi tâm”, dù rằng đã có công trình nghiên cứu
thành ngữ, tục ngữ đưa câu này vào mục từ, nhưng đó là do biên soạn phần ngọn,
phần đuôi. Lý do trường hợp này có 3 chữ Hán, 1 chữ Nôm (chữ ghi). Trong tiếng
Hán, khắc là chạm, đục, ghi; cốt là xương, như vậy đã nói khắc là ghi, đã nói cốt
là xương, vậy nên câu này là: “khắc cốt ghi xương”, không có yếu tố “tâm”,
“can”, tim, gan, lòng, dạ… gì cả. Còn trong trường hợp nếu dùng hoàn toàn 4 chữ
Hán thì phải dùng câu: “khắc cốt minh tâm”, minh tâm theo nghĩa khắc/ ghi vào
tim/ lòng. Thơ Trịnh Hoài Đức có câu: “Thạch minh tâm giới bạch vân căn”,
(nghĩa đen: Đá khắc tấm lòng rễ mây trắng, dịch thơ: Tấm lòng đá khắc vững bền
gốc mây).
3. Không bảo đảm đủ từ, chính xác trong dùng từ, dùng
câu thoại: nhiều người thích dùng chen vào bài nói những từ, câu tiếng Hán với
ý định nhấn mạnh, sang trọng hóa lời nói, bài diễn văn của mình. Điều này dễ chấp
nhận, nhưng dùng kiểu mơ hồ sẽ dẫn đến hài hước, nhiều khi “lợi bất cập hại”.
Ví dụ: Mấy năm trước, khi nêu vai trò quan trọng của Thư viện, có vị nói: “Thư
viện là kho trí thức của nhân loại”!?, đúng ra phải nói là “kho tri thức”. Cùng
bàn về việc giảm thuế, có người đồng ý chủ trương và nhấn mạnh: “…phải khoan sức
dân”, bài đăng báo, sau đó dấy lên làn sóng bình phẩm, chê trách, thực ra trong
câu nói của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”; khi nói, vị này dùng câu
trên có ý định tốt song do thiếu mất chữ “thư”, câu nói gần như trái nghĩa. Nêu
về hạn chế trình độ tin học của cán bộ thời kỳ mới sử dụng máy vi tính, một vị
phát biểu: “Yếu điểm lớn nhất của chúng ta là khả năng sử dụng máy vi tính…”,
câu nói vô tình ca ngợi cán bộ, vì “yếu điểm” là điểm quan trọng, trọng yếu nhất,
ở đây nhầm lẫn đáng tiếc giữa 2 từ: Yếu điểm và Điểm yếu. Về việc đo nồng độ cồn
để xử phạt vi phạm giao thông, có người nói: “Thần Lưu Ly nâng ly lên đặt xuống…”,
không có thần Lưu Ly trong tích cũ, chuyện xưa! Xưa kia vào đầu thời nhà Tấn
bên Trung Hoa, trong nhóm Trúc Lâm thất hiền có ông Lưu Linh uống rượu nổi tiếng
như thần mà thôi…
4. Không tối ưu, đắc ý trong dùng từ, dùng câu thoại:
Trong giao tiếp hằng ngày, trong thuyết minh phim Trung quốc, thường nghe câu:
“Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy” (người quân tử nói một lời; xe bốn con ngựa
kéo cũng khó mà chạy theo kịp/ cũng có cách giải thích Tứ mã là giống ngựa chạy
nhanh ở Tứ Xuyên)… Câu này dùng bình thường thì cũng tạm được, khả dĩ chấp nhận,
nhưng xét trong phạm trù câu đối thì chưa đắc, chưa văn hay chữ tốt, bị mấy ông
đồ Nho chê không đạt, vì trong cổ văn Trung Hoa, Việt Nam thường có đối: đối ý,
đối nghĩa, đối âm, đối từ loại, nên chữ “Quân tử” không thể đối chữ “Tứ mã”,
“nhất ngôn” không thể đối chữ “nan truy” ở 2 câu trên dưới. Xin cung cấp câu
xưa nay ít người nhớ nhưng đối chỉnh ý, chỉnh âm, chỉnh nghĩa, chỉnh thứ tự từ
loại: “Nhất ngôn ký xuất, Tứ mã nan truy”, (Một lời nói ra…).
Trên đây là phần bàn về đúng sai, chính xác, không
chính xác trong trong sử dụng từ. Còn dưới đây…
5. Phần nói thêm về chữ và nghĩa từ nguyên nghĩa rồi
biến đổi theo thời gian, có loại sử dụng và mặc nhiên xã hội thừa nhận, có loại
không dùng theo nghĩa ban đầu: lịch sử phát triển tiếng nói, chữ viết, ngữ
nghĩa cũng dần theo hoàn cảnh xã hội, tìm lại gốc ban đầu thấy thú vị.
- Dông trong dông gió, dông bão, mưa dông: dự báo thời
tiết một số báo, đài, cơ quan khí tượng đã đúng khi dùng từ “dông”, vì nguyên từ
dông này xuất phát từ “dương” tiếng Hán mà ra, dương nghĩa là gió lớn tốc lên
trong lúc chuyển mưa, chuyển Nôm mang phụ âm “d” = dông, (Lê Ngọc Trụ trong Việt
ngữ - Chánh tả tự vị và cả trong các Từ điển Hán – Nôm). Tuy nhiên, không biết
do đâu mọi người thường viết “giông”, hay do nhà văn Vũ Trọng Phụng viết tiểu
thuyết “Giông tố” (1936), người ta quen vậy, thừa nhận và bây giờ có người viết
vậy, được xem như không sai. Sau này một tiểu thuyết của nhà văn Liên Xô Daniil
Granin viết năm 1962, NXB Cầu Vồng dịch ra tiếng Việt và xuất bản năm 1987 là
“Xông vào dông bão”, người dịch đã đúng.
- Khốn nạn: nghĩa bây giờ là hèn hạ, không còn nhân
cách, đáng khinh, đáng ghét… tuy nhiên nghĩa xưa là khó khăn, lúng túng, nghèo
nàn đáng thương; còn nhớ năm 1926, học giả Nguyễn Văn Vĩnh dịch cuốn tiểu thuyết
nổi tiếng của văn hào Victor Hugo là: “Những kẻ khốn nạn”, sau này nhiều người
dịch lại là “Những người khốn khổ”.
- Trụy lạc: ngày nay nghĩa là tha hóa, đi vào con đường
ăn chơi trác táng, bê tha, thậm chí hút chích… thế nhưng đầu thế kỷ XX, truyện
ngắn “Hai cảnh trụy lạc” trong tập truyện ngắn “Dọc đường gió bụi”, xuất bản
năm 1936, nhà văn Khái Hưng miêu tả các nhân vật vợ chồng Hai Bản, Hải thật
đáng thương trong cuộc sống nghèo khó, sa cơ lỡ vận phải đi làm thuê, kéo xe,
phu hồ, không hề có cảnh ăn chơi sa đọa… nhà văn gọi đó là cảnh trụy lạc. Bây
giờ thấy người có hoàn cảnh nghèo khó như nhân vật Hai Bản mà buột miệng nói “tội
nghiệp, thật trụy lạc quá” thì nguy to…
- Xà phòng: ban đầu là từ xà – bông rồi sang từ xà
phòng (phiên âm từ tiếng Pháp: savon), sản phẩm “Xà bông cô Ba” của thương gia
Trương Văn Bền nổi tiếng toàn xứ Đông Dương từ đầu thế kỷ XX là. Khi phát triển
loại bột giặt, người ta gọi là bột giặt, có hãng nổi tiếng là bột giặt Viso của
ông Trương Văn Khôi. Như vậy loại để giặt áo quần ban đầu chúng ta phải vay mượn
từ nước ngoài xà – bông, đến khi sản xuất chất bột mới quay lại tiếng Việt là
“bột giặt”.
Cuộc sống hiện đại ngày càng có biết bao từ đã bổ sung
vào vốn từ dân tộc nhưng không có/ chưa có từ thuần Việt thay thế (phiên âm kiểu
xà phòng) như: bia, cà – rem, kem, ti-vi, phim, xe tăng, xe công - te - nơ, rơ
– mooc, xe buýt… song nói ra ai cũng hiểu. Và sẽ còn nhiều từ phải vay mượn
trong tương lai nữa.
Tóm lại, tiếng nói và chữ viết của mỗi đất nước, dân tộc
đều có hoàn cảnh lịch sử riêng, bản sắc riêng, gắn bó với đời sống, tâm hồn,
tình cảm con người đất nước đó. Quy luật sáng tạo, giữ gìn, phát triển vốn từ của
dân tộc, tiếp thu vốn từ vựng dân tộc khác để bổ sung là quy luật tất yếu của
con người theo đà văn minh tiến bộ. Trong hành trình ngôn ngữ, cũng có hiện tượng
mất/ rơi rụng từ ngữ (kiểu như từ “ngõ hầu”, hoặc thay đổi nghĩa từ so với ban
đầu; tuy nhiên tìm về ban đầu (tầm nguyên), cũng giúp cho chúng ta thêm phần
thú vị, thêm phần thưởng thức và bớt đi phần sai lệch trong giao tiếp, viết
lách… Vài mẫu dẫn trên là với mục đích như thế.
Đình Hy
XUÂN HẠ THU ĐÔNG, MỘT, XUÂN QUÊ, VẬT VỜ, XUÂN ĐÃ SANG, CÁ NƯỚC - Thơ Chu Vương Miện
XUÂN
HẠ THU ĐÔNG
mai vàng mai trắng mọc trên đất
mọc lưng đồi và mọc cuối non
mai trắng tưởng lầm là mơ trắng
ở nam nhưng gốc vốn động đình
mai vàng mai trắng ngủ trong thơ
thơ đường tàu truyền mãi tận giờ ?
có xuân có mai tươi thắm mãi
thiếp lan đình nét chữ hư chu
mai vàng mai trắng ngời thơ việt
bát cơm phiếu mẫu cuả mai đình
ân nghĩa xưa nay tìm mỏi mắt
người về huyệt lạnh gửi mắt xanh
thời cở còn có nhị độ mai
ta cũng còn mai mai tứ thời
đông xuân thu hạ hoa trĩu lá
tiến lục huyền theo liêu trai ?
MỘT
một bông cau nở một bông hoa tàn
một bầy ong đến một buổi chiều tan ?
bóng câu qua ngõ đâu vắng tiếng đàn
ta ngồi trên nước, nước chảy hò khoan
giòng trong giòng đục bèo dạt mênh mông
lơ thơ lau lách thuyền đậu trên vàm
điệu hò lạc vận dạ cổ hoài lang
em còn ở lại anh đã lên đàng
một bông hoa muộn một buổi chiều hoang
XUÂN
QUÊ
quê miềng có giải sông sâu
quê ta cũng vậy, không cầu bắc qua
xuân gần rồi lại xuân xa
tình neo một chỗ giống hoa móng rồng ?
thà rằng chả có chả không
mà nay héo cả tấm lòng vì nhau
đành rằng một giải sông sâu
bơi qua cũng đặng bắc cầu mà chi ?
thương nhau mấy thuở mấy thì
đông qua xuân đến lúa mì lúa chiêm
ngô khoai xanh ngát nương vườn
trà tươi đồi rộng mấy miền thiết tha ?
dưới kia tím đậm hoa cà
trên này sim chín chờ ta với mình
ngó sông sâu ? ngó sao đành ?
không cầu thôi cũng đứng khoanh tay buồn
xuân này xuân nữa bao xuân ?
VẬT
VỜ
đêm qua thơ thẩn bờ ao
đứng chán một lúc thụt vào trong sân
nhìn lên quay quắt vừng trăng
nửa kia ai chặt ai quăng xuống hè
gió mùa bám mãi lùm tre
ngả nghiêng ngả ngớn mưa sa mái nhà
hôm nay ngủ quá đêm qua
cũng trăng một nửa cũng ta bóng dài
trăng lên con nhện theo rồi
bỏ ta dang dở đầu hồi đầu cây
mặt ao sen sung bầy hầy
nhìn con cá lặn nhìn mây mây chuồn
nhìn trời sót lại sao hôm
nhòm theo như thể cánh chim giang hồ
song ngân một giải nông sờ
người ngô kẻ bắp mập mờ thiên nhiên
tương phùng nghiệp chướng tiền oan
vu lan tháng bảy tro tiền mã bay ?
XUÂN
ĐÃ SANG
một con chuồn chuồn, hai con chuồn chuồn
hoa đào hoa mận nở ngoài hiên ?
em ạ nhẹ tay cho anh thở
nạ dòng còn đôi tiếng chim quyên ?
chuồn chuồn vớ vẩn một, hai con
thiên thu chưa kịp nở dưới đầm ?
hoa sen hoa súng còn thiu ngủ
hái dùm chút nắng buôỉ xuân sang ?
CÁ
NƯỚC
chim bay trên trời cá bơi dưới nước ?
kiếp người kẻ xuôi người ngược
kẻ nam người bắc ? kẻ làm quan
làm dân kẻ ăn cướp làm giặc ?
kẻ buôn dân tộc ? người yêu tổ quốc ?
có người ăn bắp nướng bắp rang
có người ăn bắp luộc ?
đi bao nhiêu năm ? dừng đây
nghe bài lời chim việt ?
về đây khi gió mùa thơm ngát
văn thì cao, nhạc thì tuyệt ?
mà cuộc đời chết ngắt ?
nhà ổ chuột ? chả có gì ngoài
“nhà tôi bên chiếc cầu soi nước ?”
ta bây giờ cũng già
nhìn hoài không nhìn ra tổ quốc ?
đôi khi muốn có một quê hương
một mảnh vườn đôi ba cây thược dược
kiếp nào ? hay một mơi ta chết ?
thôi gió mùa chim giang hồ
tung cánh trắng ?
Chu Vương Miện
Subscribe to:
Posts (Atom)