Mặc Phương Tử
LỚN & LỚN
Mật
độ con người trên thế giới hiện nay mỗi lúc một tăng lên dần, nên tất cả những
nhu cầu cho đời sống con người từ nhiều phía, nhằm để cung ứng phục vụ, như : sự
ăn, mặc, ở, bệnh, các phuơng tiện đi lại, các phương tiện thông tin khoa học, các
thông tin tri thức nhân sinh và vũ trụ.v.v… Trong đó, vấn đề nhu cầu tín ngưỡng
tâm linh, hiện hóa vào cuộc sống của con người qua mọi hình thức biểu tượng,
cho niềm tin và ước nguyện cũng cần phải thực hiện đến.
Từ
xu hướng đó, đã hơn nhiều thập kỷ nay, trong cũng như ngoài nước, không ngừng
phát triển những cơ sở vật chất (thuộc lảnh vực tôn giáo) và những hình tượng tín
ngưỡng tôn thờ, ngoài việc đáp ứng nhu cầu trên, thậm chí còn có ý hơn thua, so
sánh bởi công trình lớn nhỏ với nhau, và xem đó như là sự thành công, tự mãn của
mình từ những cái lớn hay lớn nhất hiện nay.
Đành
rằng: hình thức qua biểu tượng tín ngưỡng ít nhiều cũng giúp cho con người có
sự tín tâm chân chánh, nhận ra sự nguy hại, sự tội lỗi của lòng tham ác do chính
con người. Đạo lý Đức Phật và chư Bồ Tát… không dành cho một ước nguyện tư kỷ
riêng ai, mà chỉ giúp cho một bản đồ lộ trình đưa đến đạo lộ tình thương, yên
vui, hạnh phúc, trí tuệ, chân thật bền vững lâu dài.
Đức
Phật nêu ra 2 vấn đề, để con người tự chọn lấy; “…Do VÔ MINH đi trước, làm cho đạt được các pháp BẤT THIỆN, tiếp theo là
không xấu hổ, không hổ thẹn và sợ hải”. Thế nhưng; “ Do MINH đi trước, làm cho đạt được các pháp THIỆN, tiếp theo là có hổ
thẹn và sợ hải…” (Kinh Tiểu Bộ 2, chương 2).
Xét
thấy, nếu chỉ y cứ vào niềm tin bởi một biểu tượng nào đó, trong khi ấy không có
sự tu tập, không có sự chuyển hóa thân tâm, không hiểu pháp của bậc Thánh, không
nhu nhuyến pháp bậc Thánh để tận trừ các việc làm bất thiện về thân-khẩu-ý,
để quán chiếu các
pháp vô thường, khổ, vô ngã, thì khác nào như một lữ khách đường dài tạm dừng
chân nơi một lữ quán, nơi ấy chỉ là cuộc dừng chân rảo buớc quanh những việc khổ
vui, được mất, hơn thua, vinh nhục.v.v… nơi cõi tử sinh, như một buổi chợ phù
hoa đấy thôi!
Khi
nói đến cái “lớn” hay “lớn nhất”, ta có thể nghĩ ngay rằng: tất
cả những công trình vĩ đại từ những thời quá khứ xa xôi cho đến tận bây giờ (vật
chất và tâm linh) đều lưu xuất từ trái tim rộng mở thuần thiện, nhân hậu, và
khối óc siêu vượt thời gian, những công trình ấy không dành cho cá nhân riêng tư
nào, và nó luôn là ánh hào quang tươi mát hiền diệu, chân thật ngay trong lòng
cuộc sống của nhân loại từ quá khứ đến miên viễn về sau, như: Phật Hoàng Trần Nhân Tông, ở một ngôi vị
cao nhất để trở thành một con người bình dị hơn bao giờ hết, với quan điểm: “danh lợi chỉ như đôi giầy rách”, thế nhưng
gương hạnh, đạo lý vẫn rực sáng ngàn đời cho đạo đức và dân tộc.
Những
hình ảnh khác, như Thánh Mahatma Gandhi,
một người dân tộc Ấn, kiên chí đấu tranh cho số đông công nhân, và đấu tranh bất
bạo động để dành độc lập chủ quyền cho toàn cõi đất nước Ấn. Một Albert Einstein, người gốc Do Thái, vừa
là bác học vật lý nổi tiếng, vừa là nhà hoạt động tích cực đấu tranh quyền bình
đẳng nhân quyền trong xã hội, đấu tranh chống chiến tranh, chống nạn kỳ thị phân
biệt chủng tộc… Một đạo sư Vivekananda,
một con người bình dị đến mức, thế nhưng đánh bật cái vỏ tôn giáo trong Hội Nghị
Tôn Giáo Toàn Cầu, nói đến tình yêu nhằm khai phóng ý tưởng cô lập, thể hiện tính
đạo đức bình đẳng qua tác phẩm Triết lý
Vedanta và Tôn Giáo Là Gì ?. Một văn hào Victor Hugo, người sinh ra từ nước Pháp, đã xây dựng một công trình
tiểu thuyết, quan tâm sâu sắc đến luân lý phẩm giá con người trong xã hội, phản
ảnh bao nỗi u ẩn từ bên trong ngôi nhà thờ
Đức Bà Paris lộng lẫy và tráng lệ, cho đến những hình ảnh từ những mảnh đời
nghiệt ngã đương thời, qua tác phẩm Những
Kẻ Khốn Cùng…
Một Krishnamurti, sinh ra từ miền nam Ấn
Độ, một con người khẳng khái trong việc tước bỏ địa vị danh lợi cao nhất của Hội
Thông Thiên Học đã đặt để dành cho ông. Ông nói đến tinh thần Hòa Bình, mở tung
gông xiềng tri kiến để được thoát ra sau thời Đức Phật. Quan điểm qua tác phẩm
của ông giúp cho mọi tầng lớp con người không còn lệ thuộc những hệ thức tôn giáo,
với lòng tốt để được tự do, không còn ích kỷ và đau khổ… Một Nelson Mandela (tổng thống Nam Phi) chống chủ nghĩa áp bức nô lệ…
Một Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, ngước
gốc Tây Tạng cũng từ quan điểm Hòa Bình, Công Bằng từ trái tim nhân hậu; “trái tim và óc của tôi là chùa chiền, triết
lý của tôi là lòng tốt…”
Hơn
thế nữa, đã hơn 25 thế kỷ đi qua, Đức Phật thiết lập một công trình, một con đường,
đã thật sự tưới tẫm, ươm mầm, trưởng dưỡng sự tươi mát, bền vững bằng những chất
liệu Tình Thương, Bình Đẳng, Chân thật
,Trí Tuệ và Giải Thoát cho chúng
sanh, chư thiên và loài người từ bất tận quá khứ đến miên viễn về sau, những công
trình ấy nếu không phải thật sự là “lớn”.
Sự hiện hóa Pháp Thân Phật vẫn luôn là:
“Nơi bất công, Phật hiện thân bình đẳng
Cõi tử sanh, diệu lý Phật vô sanh
Trong bi trí, Phật xóa lòng cừu hận
Trong đau thương, Phật siêu hóa một tình thương”.
Cho
đến chư Bồ Tát, Thánh đệ tử, Tổ Sư.v.v… thị hiện vào đời bằng sự hiện hóa “pháp thân” giúp cho chúng sanh, như sự
xuất hiện của các bậc đạo sư, các nhà bác học, văn hào, các nhà tranh đấu chống
chế độ áp bức nô lệ, giành lại quyền bình đẳng, nhân phẩm và ấm no, hạnh phúc
cho số đông con người trên hành tinh nầy.
Hay
như lời nguyện hùng lực đại từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, với sự ứng hóa hiện
thân mầu nhiệm “tùy xứ nhập” đến mọi
lảnh vực trong thế giới của các loài hữu tình, từ hình thức thân Phật, đến
Thinh Văn, Duyên giác, các thân quan triều tể tướng, các bậc thiện tri thức, các
thân sa môn, bà la môn, các thân trưởng giả, cư sĩ, các thân Trời, người, thiên
long bát bộ, các thân dạ xoa, càn thát bà.v.v…
Những
điều ấy, cho chúng ta thấy rằng: sự nhiệm mầu pháp ý của Đạo Phật như thế nào.
Nếu như không có sự nhận thức và tu tập để chuyển hóa thân tâm, cho dù có quỳ lạy
duới bảo tượng Thánh, Bồ tát cao lớn và cầu nguyện mỗi ngày, cũng không đem lại
lợi lạc từ sự an vui, bởi còn nhiều phiền não nhiễm ô, sân giận và tham ác nơi
thân và tâm, vì rằng:
“Quán Âm
thị hiện
Cứu khổ tầm
thinh
Từ bi thuyết
pháp
Độ khắp mê
tình
Tám nạn
tiêu diệt
Bốn biển
an bình”.
Do
năng lực phổ độ không thể nghĩ bàn ấy, là nhờ đức trí thanh tịnh trang nghiêm
qua bao đời kiếp tích tụ công đức và hạnh nguyện, giúp cho chúng sanh phát khởi
tín tâm cầu pháp giác ngộ, lánh xa sự mê lầm tội lỗi, thấy biết được nhân quả
thiện ác, hướng đến nẽo chân thiện, an trú lạc pháp, tiêu dần khổ đau ngay
trong hiện tại.
Thế
nên, biết rằng: những công trình tín ngưỡng hay pháp tháp tôn thờ bảo tượng, vẫn
có ích cho những ai sơ tín tâm khởi động những buớc đi lành thiện, như con gió mát
thổi qua vùng nóng bức rồi mất hút vào sa mạc cuộc đời. Nhưng không phải chỉ dừng
lại chừng ấy, mà còn phải nổ lực tiến xa hơn, để được thanh tịnh hóa thân khẩu ý,
để tìm và đến tận mạch suối nguồn vi diệu tâm linh. Tất cả mọi hành sự, cũng chính
là sự lưu xuất từ nơi tâm mà đến, từ nơi tâm mà đi…
Chúng
ta cùng suy nghĩ lời Bồ tát Santidheva: “Dù
có tín, đa văn, tinh tấn. Nhưng không tỉnh giác chánh tri, thì cuối cùng cũng
rơi vào ô uế tội lỗi” (Nhập Bồ Tát
hạnh – 26.).
Bài
viết nầy có ra, là do tình cờ gặp lại một người cùng đồng hành, đã giới thiệu về
công trình xây dựng tượng đài Bồ tát Quán thế Âm lộ thiên của chùa mới vừa hoàn
thành và được xem là lớn nhất trong vùng.
New Orleans, 15.06.2015
MPT