THEO MỘNG TA VỀTa thấy ta từ Sông Núi cũTrôi như con suối biệt xa nguồnRơi như chiếc lá không về cộiChạm tới vô biên những nỗi buồn!Trôi đ! Như thể chim lìa tổBỏ lại máu, xương bọc giống nòiBỏ cả tình quê yêu dấu mãiBúc ruột mà đi… hỡi Đất Trời!Ta đi như trốn ta vào núiThắp lửa rừng xanh tóc bạc rồiĐốt than nửa gánh ta vào chợNửa gánh “Hoàng hoa” sưởi mộng đờiTa đi! như bóng ma lìa xứLẫn khuất mười năm bóng dại khờ“Dâu biển” tang thương sông núi hởi!Khúc tàn chinh lệ hóa thành thơRồi mai! Gửi xác bên trời vắngĐất lạ hồn linh cũng dật dờ“Theo mộng ta về” Sông Núi cũQuê mẹ xanh rờn những giấc mơ.Long Khánh 1994Vũ Đức Tô châu
ĐỌC ‘THEO MỘNG TA VỀ” THƠ VŨ ĐỨC TÔ CHÂU
Châu Thạch
Mộng là một giấc mơ, một giấc chiêm bao trong khi ngủ. Ngoài ra mộng còn có ý nghĩa là một mơ tưởng, một ước vọng, mong muốn hay hoài bảo thành hiện thực một vấn đề gì đó. “Theo Mộng Ta Về” là cụm từ xuất hiện trong ngữ cảnh văn học, thường để diễn tả hành trình trở về cội nguồn tìm lại cảm hứng tình yêu và tâm hồn mình. Bài thơ “Theo Mộng Ta Về” của Vũ Đức Tô Châu là giấc mộng không quay lại quê hương, nhưng lại mộng thấy thuở mình bỏ quê hương ra đi lưu lạc. Đây là một bài thơ chan chứa nỗi niềm cố xứ, nơi sông núi trở thành biểu tương của cội nguồn, của ký ức, của sự thiêng liêng nhất thuộc về mẹ .
Sông núi cũ hiện lên tổng quát trong khổ đầu bài thơ, để trên sông núi đó, một khúc tống biệt hành xảy ra trong đời nhà thơ mà nỗi buồn chạm tới vô biên:
Châu Thạch
Mộng là một giấc mơ, một giấc chiêm bao trong khi ngủ. Ngoài ra mộng còn có ý nghĩa là một mơ tưởng, một ước vọng, mong muốn hay hoài bảo thành hiện thực một vấn đề gì đó. “Theo Mộng Ta Về” là cụm từ xuất hiện trong ngữ cảnh văn học, thường để diễn tả hành trình trở về cội nguồn tìm lại cảm hứng tình yêu và tâm hồn mình. Bài thơ “Theo Mộng Ta Về” của Vũ Đức Tô Châu là giấc mộng không quay lại quê hương, nhưng lại mộng thấy thuở mình bỏ quê hương ra đi lưu lạc. Đây là một bài thơ chan chứa nỗi niềm cố xứ, nơi sông núi trở thành biểu tương của cội nguồn, của ký ức, của sự thiêng liêng nhất thuộc về mẹ .
Sông núi cũ hiện lên tổng quát trong khổ đầu bài thơ, để trên sông núi đó, một khúc tống biệt hành xảy ra trong đời nhà thơ mà nỗi buồn chạm tới vô biên:
Ta thấy ta từ Sông Núi cũTrôi như con suối biệt xa nguồnRơi như chiếc lá không về cộiChạm tới vô biên những nỗi buồn!
Khổ thơ đầu có 4 câu thơ, thì 3 câu là 3 bức tranh gợi hình tổng quát, cho ta ý niệm về một cuộc ra đi bất đắc dĩ. Nhà thơ theo giấc mộng để về lại quê hương nhưng không thấy ngày tái ngộ mà thấy ngày mình ra đi. Sông và núi hiện lên trong mơ. Nhà thơ là một phần rất lớn mà cũng rất nhỏ trên sông núi đó. “Trôi như con suối biệt xa nguồn” là phần rất lớn mà nhà thơ muốn nói, đó là phần tinh thần gắn bó với quê hương. Phần tinh thần ấy phải rời quê hương, như dòng sông trôi đi ra biển, để phải “Nước non vẹn một lời thề/Nước đi đi mãi không về cùng non”. “Rơi như chiếc lá không về cội” là phần rất nhỏ. Rất nhỏ nhưng cũng rất quan trọng vì đó chính là thân thể của nhà thơ. Thân thể ấy rơi như chiếc lá nhưng không về gốc của cây, mà bay biệt xa cây. Câu thơ “Chạm tới vô biên những nỗi buồn” so sánh hình ảnh nỗi buồn bao la như không gian, như vũ trụ. Cả bốn câu thơ cho ta cảm giác đánh mất những điều thiêng liêng nhất, và hiểu được tấm lòng hoài hương của thi nhân da diết đến nhường nào.
Khổ thơ thứ 2 như những nhát dao cắt vào tâm hồn, vết cắt ấy xẻ thịt xé lòng, quay quắt trong tim, làm tím luôn dòng máu:
Trôi đ! Như thể chim lìa tổBỏ lại máu, xương bọc giống nòiBỏ cả tình quê yêu dấu mãiBúc ruột mà đi… hỡi Đất Trời!
“Chim lìa tổ” ở đây không phải là chim thiên di mà là chim vỡ tổ. “Máu, xương bọc giống nòi” chớ không phải giống nòi bọc máu, xương, nghĩa là tình quê hương có sẳn trong máu trong xương, mà giống nòi che chở, bao bọc, chớ chưa dùng tình yêu thương đó phụng sự gì quê hương. Cũng có thể “Bỏ lại máu, xương bọc giống nòi” là bỏ lại mồ mả, đền thờ cha ông đã từng xây đắp quê hương. Hai câu thơ sau “Bỏ cả tình quê yêu dấu mãi? Búc ruột mà đi…hởi Đất Trời” là tiếng rên thảm thiết, không phải trách đất trời, mà hỏi đất trời có hiểu thấu cho tôi không!
Toàn khổ thơ thứ 2 mang âm hưởng bi tráng, bày tỏ sự bất bình khôn nguôi trong lòng tác giả, như tiếng kêu của loài chim vỡ tổ, như tiếng rống của con hổ bị lìa hang động. Bốn câu thơ không chứa ẩn dụ nhưng chứa tâm tư buồn bực, phẩn uất, của người bị đuổi đi như con suối xa nguồn, như chiếc lá không về cội, như con chim lìa tổ ấm, mãi mãi bay đi không về. Nếu có về được chăng, chỉ về bằng mộng mà thôi.
Ở khổ thơ thứ 3, nhà thơ cho biết mình đi “như trốn ta vào núi”. Núi nầy không phải núi ở quê hương mà núi ở một miền xa cách quê hương. Bởi vì nếu ở trên quê hương thì nhà thơ không thể “Theo Mộng Ta về” quê hương được. Nói thế thôi, nhưng cũng có nhiều người trốn vào chính núi quê hương mình, nhưng tâm tư họ luôn nghĩ mình đang lưu vong trên chính quê hương mình:
Ta đi như trốn ta vào núiThắp lửa rừng xanh tóc bạc rồiĐốt than nửa gánh ta vào chợNửa gánh “Hoàng hoa” sưởi mộng đời
Câu “Thắp lửa rừng xanh tóc bạc rồi” mang ý nghĩa sâu sắc về sự hoài niệm. Thời gian trôi qua không ngừng và nhiệt huyết vẫn cháy bỏng dầu tuổi đã cao. Hình ảnh rừng xanh là biểu tượng cho lý tưởng tuổi trẻ, còn tóc bạc là dấu hiệu của năm tháng. Hình ảnh lửa vẫn cháy, thể hiện một tâm hồn không bao gờ nguôi lạnh lý tưởng của mình. “Đốt than nửa gánh” không có nghĩa đen là chỉ đốt một nửa gánh than, mà có nghĩa bóng gợi lên sự lam lủ, là biểu tương của sự nhọc nhằn. “Nửa gánh” là không hoàn thành đủ một gánh, nói lên sự khó khăn trong mưu sinh. “Đốt thang nửa gánh ta vào chợ” có ý nghĩa về cuộc sống nghèo khó, vất vả của người lao động nhưng vẫn kiên trì bám trụ với cuộc đời, đồng thời ẩn chứa tấm lòng sắc son, thủy chung theo đuổi lý tưởng của mình. “Nửa gánh Hoàng Hoa sưởi mộng đời” là một ẩn dụ sâu sắc, đặc biệt liên quan đến tác phẩm “Gánh Hàng hoa” của Khái Hưng, thể hiện một khát vọng tình yêu bình dị. “Gánh hoàng hoa” tượng trưng cho cuộc mưu sinh vất vả nhưng cũng là nét đẹp văn hóa. Nửa gánh chỉ sự dang dở trong tình trường, hay nỗi cô đơn, sự chia cách của mối tình. Ở đây nhà thơ lấy tình yêu dang dở đó để sưởi ấm cho mộng của đời mình. Cả bốn câu thơ nói lên một kiếp đời phiêu bạc, dường như nhà thơ càng đi xa thì càng thấy mình lạc lỏng quê hương và lạc lỏng chính nơi mình trú ngụ.
Vào khổ thơ thứ tư, Vũ Đức Tô Châu dùng hình ảnh đầy u tối, diễn tả sự mất mát của người xa quê hương. Người đó vất vưởng trong cuộc sống như một chiếc bóng dại khờ. Những nỗi bi thương đó kết thành thi ca, phần nào cứu rỗi được linh hồn của người biệt xa xứ:
Ta đi! như bóng ma lìa xứLẫn khuất mười năm bóng dại khờ“Dâu biển” tang thương sông núi hởi!Khúc tàn chinh lệ hóa thành thơ
“Ta đi như bóng ma lìa xứ” là sự rời đi một cách âm thầm, đột ngột, không để lại dấu vết, không chia tay với ai. Câu thơ gợi cho ta cảm giác trống vắng, chia ly trong nỗi buồn như sự chết. “Lẫn khuất mười năm bóng dại khờ/ “Dâu biển” tang thương sông núi hởi!” là vòng biến thiên nghiệt ngả mà quê hương, núi sông, những điều bất biến cũng nhuộm màu tang thương. “Tàn chinh” là cuộc chinh chiến đã hết. Với nhà thơ, lệ chảy nhiều sau cuộc chinh chiến, và lệ ấy đã biến thành thơ. Cả khổ thơ là của người lưu lạc, ra đi như bóng ma, chịu đựng sống dật dờ, hồi quang một thời trôi nổi. Khổ thơ vang lên như tiếng quê hương than thở. nhưng ở câu cuối thơ bật sáng. Câu thơ cuối tạo độ nặng, làm toàn bộ vượt khỏi sự bi lụy để chạm đến sự thăng hoa.
Cuối bài thơ, khổ thơ thứ năm là khát vọng trở về với núi sông quê mẹ:
Rồi mai! Gửi xác bên trời vắngĐất lạ hồn linh cũng dật dờ
“Theo mộng ta về” Sông Núi cũQuê mẹ xanh rờn những giấc mơ
Khổ thơ nầy là một dự cảm, dầu thân xác chết đi nằm nơi miền đất lạ, linh hồn vẫn không nằm yên nếu chưa về với quê hương. Hai câu thơ kết như một lời thệ nguyện, dầu sống hay chết ta vẫn sẽ “Theo mộng ta về” an trú nơi quê hương.
Toàn bộ bài thơ “Theo Mộng Ta Về” Của Vũ Đức Tô Châu bày tỏ nỗi nhớ quê hương da diết của người tha phương. Nỗi đau bị đánh bật khỏi cội nguồn. Khát vọng trở về trong giấc mơ và trong tâm linh, lấy hình ảnh giàu tính biểu tượng: suối xa nguồn, chim lìa tổ, bóng ma lìa xứ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm. Giọng thơ bi thiết, giàu nhạc tính. Cách lặp điệp từ “Ta đi!” tạo nhịp thơ dồn dập, nhấn mạnh. Đây là tiếng nói của hàng triệu người xa xứ bất đắt dĩ mà lòng luôn đau đáu với quê hương.
Toàn bộ bài thơ “Theo Mộng Ta Về” Của Vũ Đức Tô Châu bày tỏ nỗi nhớ quê hương da diết của người tha phương. Nỗi đau bị đánh bật khỏi cội nguồn. Khát vọng trở về trong giấc mơ và trong tâm linh, lấy hình ảnh giàu tính biểu tượng: suối xa nguồn, chim lìa tổ, bóng ma lìa xứ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng giàu sức gợi cảm. Giọng thơ bi thiết, giàu nhạc tính. Cách lặp điệp từ “Ta đi!” tạo nhịp thơ dồn dập, nhấn mạnh. Đây là tiếng nói của hàng triệu người xa xứ bất đắt dĩ mà lòng luôn đau đáu với quê hương.
Châu Thạch
