TƯ
LIỆU: ĐỔNG VĂN THÀNH NỔ ĐẠI BÁC VÀO TƯỢNG ĐÀI VĂN HOÁ NGUYỄN DU NHƯ THẾ NÀO ?
Trong tranh luận với một người tự xưng là học thuật
tay dọc gọi tôi là học thuật Tay Ngang, mà tôi đặt tên là Tín Đồ kéo dài một tuần.
Hơn thua là do bạn đọc làm trọng tài, mà vì không có trọng tài chính thức, chỉ
có người ủng hộ hai bên, tôi không lạm bàn. Nhưng vì vị này đề nghị vì vị ấy
không có thời gian, mỗi bên cứ giữ lập trường nhưng “đừng gọi đến tên nhau”. Đề nghị này tôi chấp nhận, nên chỉ tự xưng
là Tay Ngang và gọi vị ấy là Tín Đồ thôi.
Sau đây tôi xin trích bài dịch của Tiến Sĩ Hán Nôm Phạm
Tú Châu, một người tôi không quen biết đã khuất nhưng tôi luôn tỏ lòng kính trọng.
Vì tôi có một ý nghĩ bà Phạm Tú Châu trên văn đàn cũng đơn độc như bà Phạm Chi
Lan trên chính trường. Tôi đăng bài này như là một lần nữa biết ơn bà Phạm Tú
Châu, một người phụ nữ đã giúp tôi biết được sự thật.
Sau đây là văn bản của “giáo sĩ” Đồng Văn Thành rao giảng cho các tín đồ Thanh Tâm Tài
Nhân. Phần 1 tôi chỉ trích đoạn. Phần 2 nguyên văn. Phần 3 hẹn lần sau. Quý vị
nào thấy cần thiết nên lưu suy ngẫm, xem có phải tôi mắc chứng thần kinh yêu nước
cực đoan không? Hoặc là dùng làm tư liệu để chỉ cho con cháu cảnh giác trước âm
mưu xâm lược văn hoá. Bài dài, các vị có thể đọc từng phần.
Đổng Văn Thành: So Sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Phần
I:
Muốn phát triển nền văn học xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, chúng ta cần phải học tập và tham khảo di sản ưu tú của nước ngoài, nhưng
cũng không nên lãng quên gốc gác mà nên tôn trọng và kế thừa di sản văn học ưu
tú của dân tộc mình. Dựa trên tinh thần đó, từ lâu tôi đã mong có ngày nhìn thấy
Truyện Kim Vân Kiều, cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nghe nói đã thất truyền ở
trong nước. Năm 1981 bất ngờ phát hiện ra cuốn sách đó ở thư viện Đại Liên, nỗi
vui mừng của tôi thật không sao hình dung nổi. Tôi đọc một hơi hết cả cuốn sách
và lập tức nảy ra ý nghĩ muốn so sánh nó với Truyện Kiều của Việt Nam.
Sau khi đối chiếu qua lại như trên chúng tôi có được một
kết luận rõ ràng, dễ thấy, đó là nhân vật chính cùng tình tiết cốt truyện ở hai
bộ Truyện Kiều của Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn giống nhau, kể cả kết cấu tự
sự cũng không có chút thay đổi. Chỗ khác nhau chỉ là Truyện Kiều Trung Quốc có
bản 12 hồi và bản 20 hồi, còn Truyện Kiều Việt Nam chỉ có bản gồm 12 quyển,
không có bản gồm 20 quyển. Tiểu thuyết Truyện Kiều Trung Quốc lưu truyền cuối đời
Minh, tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân in đầu đời Thanh còn Truyện Kiều của Việt
Nam, Nguyễn Du hoàn thành vào năm thứ hai sau chuyến đi sứ Trung Quốc lần thứ
nhất (năm 1815, niên hiệu Gia Khánh năm thứ 20), muộn hơn Truyện Kiều Trung Quốc
ít nhất là trên 160 năm. Rõ ràng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng tác phẩm của Thanh
Tâm Tài Nhân chứ quyết không thể ngược lại. Năm 1958, Hội trưởng hội Hữu nghị
Việt–Trung Bùi Kỷ viết lời tựa cho bản dịch Truyện Kiều thừa nhận rõ ràng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du lấy đề tài ở tiểu
thuyết Trung Quốc”. Qua sự đối chiếu trên đây, nên nói rằng Nguyễn Du chẳng
những chỉ “mượn đề tài của tiểu thuyết
Trung Quốc” mà dường như bê nguyên xi; về mặt thuật lại từng trải của nhân
vật và viết truyện, Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển
thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân mà thôi.
Kết
luận
Thông qua so sánh như trên, có thể rút ra kết luận gồm
mấy điểm như sau:
1. Nhìn tổng thể, tôi thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du bất
luận về nội dung hay về nghệ thuật (Phần II sẽ nói rõ) đều không vượt được
trình độ của bản gốc - Truyện Kiều của Trung Quốc - mà nó mô phỏng. Truyện Kiều
của Nguyễn Du bảo tồn được phần lớn tinh hoa của nguyên bản tiểu thuyết Trung
Quốc tuy có tăng giảm về nội dung và nghệ thuật của nguyên tác, song phần nhiều
vẫn bảo tồn được, vì vậy có cống hiến cho sự giao lưu văn hoá giữa Trung Quốc
và Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm đáng được khắng định.
2. Truyện Kiều của Trung Quốc bị mai một, thậm chí bị
đánh giá thấp trong thời gian dài. Hiện tượng kỳ lạ đó chứng tỏ chúng ta vẫn
còn thiếu nhận thức đầy đủ về kho báu văn học nghệ thuật phong phú mà tổ tiên để
lại cho chúng ta; công tác nghiên cứu văn học cổ đại về cơ bản vẫn dừng ở một số
ít tác giả và tác phẩm nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn mà chưa hứng thú bao nhiêu với
tác giả và tác phẩm loại hai. Việc nghiên cứu cô lập đó không thể thích hợp với
tình hình phát triển của học thuật hiện nay. Vì vậy, việc đi sâu vào công tác
nghiên cứu tiểu thuyết quý giá cuối đời Minh đầu đời Thanh có tác dụng gợi mở
quan trọng nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn bộ văn học cổ điển của nước ta.
3. Tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cần
được đánh giá lại, ảnh, hưởng quan trọng của nó trong lịch sử văn học Tnmg Quốc
và lịch sử văn học thế giới cần được thừa nhận và đánh giá công bằng.
4. Mệnh đề “tiểu
thuyết tài tử giai nhân” không thể khái quát một cách khoa học tất cả tiểu
thuyết bạch thoại của các văn nhân mà tuyến cốt truyện là tình yêu và hôn nhân.
Cần phân tích so sánh nhiều tác phẩm với nhau, nhận thức lại bộ mặt vốn có của
số tiểu thuyết này, bổ sung những đoạn còn yếu trong lịch sử tiểu thuyết truyền
thống.
Phần
II
I. Từ chi tiết xem xét những sai dị
Ở phần I, thông qua so sánh nội dung tổng thể Truyện
Kim Vân Kiều của Trung Quốc và Việt Nam, chúng tôi đã nêu những điểm chung rõ rệt
giữa hai sách. Muốn biết những điểm khác nhau giữa hai sách, không thể đơn giản
như thế là được mà phải phát hiện ra bằng cách so sánh nghiêm túc tất cả những
chi tiết không khiến người ta mấy chú ý, sau đó tổng hợp những sai biệt nhỏ nhặt,
cục bộ này lại rồi so sánh thì mới có thể thấy rõ những điểm khác nhau trong sự
giống nhau, từ đó mới thực sự phân biệt giữa hai sách. Có điều, sự sai biệt về
chi tiết giữa hai sách lại rất ít, chủ yếu biểu hiện ở ba phương diện sau đây.
A. Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình cho một
số nhân vật, làm tổn hại sự hoàn chỉnh và thống nhất về tính cách của những
nhân vật ấy ở mức độ nhất định
1. Hạ thấp anh hùng nổi dậy, tô đẹp cho quan quân tướng
soái
Tiểu thuyết nguyên tác khắc hoạ Từ Hải - anh hùng nổi
dậy - như một điển hình anh hùng chính nghĩa và trí dũng. Trong truyện, ngay từ
lúc xuất hiện, Từ Hải đã không phải tầm thường:
“Có
một hảo hán họ Từ tên Hải, hiệu là Minh Sơn hoà thượng, người đất Việt đến
chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng,
ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa
lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn cùng lứa, cao lớn
hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời cho
ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng
hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải
làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể chết
già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh
hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự
mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục
đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt huyết sôi sục trong người này
làm thế nào sử dụng được? Hồi nhỏ học hành nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn,
của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè”.
Đoạn không tiếc lời ca ngợi để miêu tả tính cách, phấm
chất nhân vật như trên không có ở nơi nào khác trong sách ngoài nhân vật chính
là Vương Thuý Kiều. Khi Từ Hải gặp được Thúy Kiều, Thúy Kiều thổ lộ mình xưa
nay “không đem gan ruột gửi cho kẻ phàm tục”.
Ấn tượng đầu tiên của Thuý Kiều đối với Từ Hải là “bậc anh hùng, có độ lượng lớn, xứng đáng là người kỳ lạ ở Thái Nguyên,
ngay đến Bình Nguyên Quân cũng không khoáng đạt được bằng”. Vừa gặp mặt,
Thuý Kiều bèn xiêu lòng, trao thân gửi phận. Ngay khi đó, Từ Hải đã tỏ rõ chí lớn
chống triều đình với Thuý Kiều: “Nàng hãy
ở lại đây, không quá ba năm ta sẽ đón nàng về. Đao lớn búa to, cung lắp tên, kiếm
tuốt trần, tiền hô hậu ủng, vạn ngựa ngàn quân, ấy là lúc Từ Hải này đắc chí vậy”.
Thông qua lời La Trung Quân, sách thấy rõ hơn nguyên nhân chống lại triều đình
của Từ Hải: “Đốc phủ hay tin đại vương là
kẻ sĩ hào kiệt, không chịu nhục với tham quan ô lại buộc phải làm giặc, tình thực
ấy đáng nên tha thứ”. Trong các câu thơ ở đầu mỗi hồi, có ba lần xuất hiện
tên hiệu của Từ Hải: “Hội Vu lan bỗng gặp
yêu ma thành trụy lạc - Chốn yêu lại đua phong nguyệt gặp anh hùng” (Hồi
17), “Vương phu nhân xử chém phường bất
nghĩa - Từ Minh Sơn tặng vàng kẻ có ơn” (Hồi 18), “Chiêu an giả, Minh Sơn mất mạng - Đứt ruột thật, Thuý Kiều quyên sinh”
(Hồi 19). Đích thân Từ Hải rửa sạch nỗi oan lớn cho Thuý Kiều, cho nên Thuý Kiều
“đứt ruột thật” cũng vì cái chết tàn
khốc của Từ Hải, đủ thấy trong con mắt tác giả, Từ Hải ở địa vị cao cả.
Tới ngòi bút của Nguyễn Du, bậc anh hào thảo dã Từ Hải
ôm chí lớn ngút trời bị thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạc khắp nơi:
Câu 2165:
Có
một người khách biên cương,
Người
ấy râu hùm, hàm én, mày ngài.
Bỗng
tới câu lan du đãng,
Vai
rộng, thể mạo hiên ngang.
Dáng
vóc anh hùng, tinh thông quyền côn,
Càng
thêm tài lược thao cường.
Đội
trời đạp đất trang nam tử,
Tên
gọi Từ Hải, vốn ở Việt Đông sinh trưởng.
Quen
chốn giang hồ, mặc tình lưu lãng,
Nửa
vai cầm kiếm, một mái chèo.
Vượt
qua núi cao với hải dương.
Do trò chuyện ăn ý với Thuý Kiều, Từ Hải thổ lộ ngay
tâm sự của mình với nàng.
Câu 2203:
Một
lời nói toạc,
Ta
có vạn chung ngàn cỗ ngựa.
Khá
cùng nàng hưởng hết vinh hoa.
Trong đoạn này cũng có câu chữ khen ngợi nhưng so với
tiểu thuyết nguyên tác thì khí khái tinh thần kém xa. Ở đây ra sức nói về quãng
đời lưu lãng của Từ Hải rõ ràng có liên quan tới quãng đời 13 năm lưu lãng của
Nguyễn Du ở tỉnh Thái Bình từ 1789 đến 1802. Bản thân Nguyễn Du không hề có
thái độ tạo phản, lúc ấy ông coi quân khởi nghĩa nông dân là kẻ thù, rồi sau
khi thất bại, thì trở thành kẻ vong mệnh nước mất nhà tan... Vì vậy khi viết về
Từ Hải, liền tiện tay cắt bỏ chí hướng và tinh thần của Từ Hải, khiến Từ Hải trở
thành nhân vật khái niệm hoá có hình hài mà vô hồn. Quãng thời gian duy nhất
Nguyễn Du vất bút tòng nhung là lúc ông giữ chức Thái Nguyên Hùng hậu quân hiệu
Chánh Thủ hiệu của vương triều nhà Lê; trong quá trình quân khởi nghĩa nông dân
Tây Sơn lật đổ nền thống trị thối nát của vương triều nhà Lê lập nên chính quyền
mới của quân khởi nghĩa nông dân, Nguyễn Du “chiêu
tập hào mục mưu khôi phục nhà Lê, gây phong trào phục quốc nhưng việc bị lộ, bị
trấn tướng Sơn Tây là Thận quận công bắt được..., sau mấy tháng bị giam được
tha cho về” (theo Hoàng Dật Cầu: “Nguyễn Du - nhà thơ Việt Nam và kiệt tác
Truyện Kim Vân Kiều của ông’’). Sự từng trải đó khiến cho giữa người tạo phản
và kẻ trấn áp, Nguyễn Du đã dành sự đồng tình của mình cho kẻ sau, bởi vậy mới
có sự khen chê trái ngược hẳn với nguyên tác đối với nhân vật tiêu biểu đó.
Trong tiểu thuyết nguyên tác, Từ Hải bấy lâu vẫn nhờ dựa
bọn giặc bên ngoài nghe lời khuyên của Thuý Kiều mới quyết định nhận lời chiêu
an của nhà Minh. Còn động cơ thuyết hàng của Thuý Kiều, ngoài lời dụ dỗ của bọn
gian tế khuyên lơn những là: “chồng sang
vợ rạng, áo gấm về quê” theo lối phong kiến ra, còn xuất phát từ suy nghĩ “lo lắng cho sinh dân” và rõ ràng nàng
không tán thành Từ Hải cấu kết với bọn hải khấu nước ngoài để cướp bóc nước
nhà. Vì vậy, Thuý Kiều khuyên Từ Hải cũng có một mặt là yêu nước. Nàng nói với
Từ Hải:
“Huống
chi những kẻ bất lương đâu phải là hạng có thể kết thân lâu dài? Việc làm giặc
cũng thực sự bất đắc đĩ, như vậy mà còn luyến tiếc mãi sao?”
Từ Hải cũng cho Vương Thuý Kiều khuyên mình nhận lời
chiêu an là có lý:
“Bởi
đã chịu sự sắc phong của Minh triều thì không còn coi nước cha mẹ là thù địch nữa...
Hiền thay, phu nhân! Nàng vừa trung với vua lại yêu đất nước, mềm dẻo nên việc
khiến cho Từ Hải này khỏi làm kẻ tội nhân cho muôn đời, ấy
là công phu nhân vậy.”
Sang đến tay Nguyễn Du, chi tiết Từ Hải câu kết với bọn
giặc biển nước ngoài ấy nhiễu nước mình đã bị xoá đi, Từ Hải chỉ còn là một người
tạo phản bình thường, từ đó mượn việc hạ thấp Từ Hải này mà Nguyễn Du phát tiết
tâm lý thù địch của bản thân với khởi nghĩa nông dân. Ông còn mượn lời nhân vật
Thuý Kiều trong truyện thơ để nói.
Câu 2493:
Từ
khi gây việc binh đao
Đống
xương bên sông Vô Định đã cao như núi
Việc
gì để tiếng xấu cho ngàn vạn năm?
Vận
khí Hoàng Sào đâu có được dài?
Sao
bằng quan cao lộc hậu,
Công
danh nhanh chóng phi thường.
Cái lối mượn nhân vật trong truyện làm cái loa truyền
thanh cho tư tưởng chủ quan của mình chẳng những xuyên tạc hình tượng Thuý Kiều,
chữa những lời nói, việc làm yêu nước của nàng thành lời lẽ của một kẻ phản bội,
nội gián, làm tan rã khởi nghĩa nông dân từ bên trong, mà còn vu cáo, rủa xả ác
độc khởi nghĩa nông dân, hạ thấp hẳn ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
Tiểu thuyết nguyên tác phơi bày không nể nang và châm
biếm chua cay sự thối nát bất tài của tướng soái quan quân. Vương Thuý Kiều từng
nói:
“Chỉ
vì thái bình đã lâu, dân không biết binh đao. Võ biền quen thói phụng thừa, văn
quan quen thói bợ đỡ. Chủ soái không luyện tập lại binh đao, không chiến đấu, vừa
nghe tiếng chiêng tiếng trống, vừa thấy cảnh chém giết oai phong, tức thì tay
chân luống cuống, người chết chẳng kịp cứu thì còn ai dám cự địch so tài?...
Trên miếu đường tuy không có tay hào kiệt mà nơi thảo dã thực có anh hùng.’’
Tác giả ca ngợi quân uy của Từ Hải, chê bai sự bất tài
của quan quân, tính khuynh hướng ấy rất rõ. Xin dẫn đoạn miêu tả chiến trận như
sau để làm ví dụ:
Minh Sơn dẫn quân trở về Đại Hoang rồi cho quân đi cướp
phá bốn phương, binh uy ngày thêm vang dội. Đốc phủ sai viên tướng du kích là Cừu
Nhiêu (âm tương tự với cầu xin tha – P.T.C) cùng tham tướng Bốc Tế (âm tương tự
với chẳng nên việc – P.T.C) kéo một vạn quân đến nghênh địch, gặp đại quân của
Từ Hải ở giữa đường. Từ Minh Sơn bảo với phu nhân:
“Từ
trước tới nay quân của ta đến đâu, chưa từng có kẻ nào dám ra nghênh chiến. May
mắn hôm nay cánh quân này, để tôi cùng hắn giao đấu một trận thử xem quân chúng
ra sao, tướng sĩ mạnh hay yếu. Nàng hãy dốc trận chờ ta chém tướng chặt cờ của
chúng, làm vang dậy cái oai hùng của quân ta.”
Sau ba hồi trống, cửa trận đôi bên mở ra. Minh Sơn lên
ngựa… quát to:
“Bớ
bọn quan quân kia, kẻ nào mạnh hãy ra trận, kẻ nào yếu chớ có tới!’’
Hai tướng Cừu Nhiên, Bốc Tế thấy Từ Minh Sơn oai phong
lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, cầm búa thúc ngựa, phi qua phi lại, xông tới xông
lui trước trận tiền, chẳng khác nào một vị thiên thần hay sát tướng xuống trần
gian. Bốc Tế sai Cừu Nhiêu ra coi trận rồi bảo.
“Ông
là du kích tướng quân nên xông ra trước.’’
Cừu Nhiên đáp:
“Ông
là chánh tướng, tại sao lại đẩy một mình tôi ra trước?’’
Hai người cứ đùn đẩy nhau, chẳng ai dám ra nghênh chiến.
Từ Minh Sơn thấy quang cảnh đó quát lên rằng:
“Quan
quân như thế kia mà cũng sai chúng mày ra nghênh địch ư? Đợi ta phá nát trại
chúng mày.’’
Rồi ngồi xuống ngựa, vung búa trong tay, thét lên một
tiếng vang như sấm nổ giữa trời mà rằng.
“Quân
ta đâu, theo ta phá trại!’’
Một mình một ngựa, Minh Sơn xông thẳng tới trước mặt Cừu
Nhiên. Cừu Nhiên không dám đón đỡ, sai viên Thứ Bị là Không Hỗn nghênh chiến.
Không Hỗn bất đắc dĩ cầm giáo lên ngựa đón đánh. Từ Minh Sơn quát to:
“Tên
quan chó má hãy tới chịu chết!’’
Nói rồi phóng ngựa xông tới, Không Hỗn sởn người ngã
quay xuống ngựa, Minh Sơn rượt theo, vung búa chém đứt làm đôi rồi xua quân
chém giết. Cừu Nhiêu, Bốc Tế ôm đầu chạy trốn, chẳng còn dám nghênh chiến. Cảnh
thảm bại của quan quân trông thật đáng thương…
Quan quân đã thua. Từ Hải thắng tiến lên, chưa đầy ba
ngày đã phá xong năm huyện, quân uy vang dội.
Rõ ràng khi miêu tả cuộc chiến này, tác giả đứng trên
lập trường ngợi ca quân đội của Từ Hải, nhiều lần dùng lối văn so sánh để đề
cao, khoa trương quân uy của Từ Hải và kết luận bằng mấy câu thơ:
Thiên
tử thất kinh doanh Tế Liễu
Tướng
quân ngâm ngợi trướng Liên Hoa
Chỉ
vì binh pháp thông trời đất
Rồng
hổ náu mình chẳng dám ra.
Còn dưới ngòi bút của Nguyễn Du, ưu thế áp đảo tuyệt đối
quân đội triều đình đó của Từ Hải giảm nhẹ rất nhiều. Câu 2430:
Từ
sau đó – chiến quả liền liền,
Chia
văn võ, vạch ranh giới sơn xuyên.
Khí
tượng vạn nghìn,
Giơ
chân đạp đổ cõi nam năm huyện.
Phong
trần lắm chuyện, gươm báu như cầu vồng.
Coi
quan quân giá áo túi cơm, sâu bọ côn trùng.
Nếu nói đoạn miêu tả trên đây về cơ bản là biểu hiện
hàm súc khí thế của Từ Hải thì đoạn khen ngợi tướng lĩnh quan quân dưới đây quả
đã đi ngược lại tinh thần của nguyên tác. Câu 2451:
Bỗng
có một vị Tổng đốc, triều đình coi trọng,
Tên
gọi Hồ Tôn Hiến, tài đức lớn gồm chung.
Vâng
chỉ ra quân lọt mắt chín trùng,
Dẹp
trừ giặc biển, quân sự toàn quyền thao túng.
Viết lại như thế chẳng những xóa bỏ toàn bộ lối châm biếm
quan quân tướng lĩnh cùng lối miêu tả tô đậm binh uy của Từ Hải trong tiểu thuyết
nguyên tác mà còn tả Đốc phủ Từ Hải đánh cho quân lính tan tác mà còn cả Đốc phủ
bị Từ Hải đánh cho quân lính tan tác thành nhân vật có bàn tay sắt xoay chuyển
được thế bại của quan quân; khi hắn nhận lệnh vào lúc nguy nan, Nguyễn Du tả hắn
dựa hoàn toàn vào mưu trí khiến cho Từ Hải hoành hành một thời cũng thảm bại
như bỡn, mạng toi, quân rã. Về thực chất, tả như thế là dùng Từ Hải để làm nổi
bật tài lược và công lao của Đốc phủ.
Đốc phủ trong tiểu thuyết, võ chẳng thắng nổi người, đức
không dung được ai, giết kẻ hàng, cướp lấy công, hoang dâm ngang ngược, là một
kẻ tầm thường, gian nịnh. Ra sức tô vẽ hắn, hẳn việc đó cũng cùng chung một mạch
với hành vi góp nhặt đội quân phản động để chống lại khởi nghĩa nông dân Tây
Sơn của Nguyễn Du năm nào, hé lộ một cách khéo léo lập trường của giai cấp quý
tộc quan liêu chống khởi nghĩa nông dân của ông. Thái độ tương phản đối với
nhân vật trong nguyên tác của Nguyễn Du khiến truyện thơ do ông cải tác thêm nội
dung phản động là tô vẽ kẻ thống trị quý tộc phong kiến, chống đối khởi nghĩa
nông dân, từ đó làm suy yếu hẳn sức phê phán đối với sự thống trị phong kiến
đen tối.
2. Tô vẽ cho tội ác của quý tộc phong kiến, che đậy phần
miêu tả mâu thuẫn giai cấp của nguyên tác
Sau đây chỉ nêu 3 thí dụ:
a. Thay đổi lại nguyên nhân Vương Thúy Kiều bán mình.
Tiểu thuyết nguyên tác viết, sau khi cha mẹ Vương Thúy
Kiều tới nhà dượng của cô dự lễ mừng thọ, về tới nhà bảo Thúy Kiều:
“Con
ơi! Nguy rồi! Dượng con cho hai thằng bán tơ ở trong nhà, không biết chúng là
cướp, khi chúng bán tơ bị nguyên chủ nhận ra đưa đi thưa quan, quan một mực cho
dượng con là kẻ oa trữ. Cha mấy bữa cùng ngồi uống rượu với chúng, chỉ sợ bị
chúng khai liều làm hại.”
Dương Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào
lời phạm nhân khai là có dính dáng đến Vương Viên ngoại, không cần xét thật giả
đã lập tức lợi dụng khẩu cũng gian dối này làm cớ, sai ngay bảy, tám tên sai
nha xông vào nhà họ Vương vơ vét của cải, dùng cực hình tra hỏi.
Công sai chẳng cần phân giải, bắt luôn hai cha con
Vương Viên ngoại trói ghì vào cột rồi quát bảo nhau: “Khám tang vật”. Tìm khắp trước sau, trong ngoài, dưới bếp, nhà
tiêu, sục vào mọi chỗ. Hòm xiểng, tủ giả, mở hết ra, thứ gì đáng giá ít nhiều,
chúng đều thu hết. Vương Bà vừa mừng thọ về, trên người mặc bộ quần áo mới,
chúng cũng lột lấy, đồ trang sức trâm thoa cũng không sót một thứ gì. Thấy quần
áo Thúy Kiều, Thúy Vân dẫu đã cũ nhưng là hàng tơ, cũng bắt lột ra… Đáng thương
cho một gia đình đang yên lành mà phút chốc tan tành như bể tuyết núi băng.
Hai cha con Vương Viên ngoại đầu tóc rối bù, chân
không giày dép, tay trói chân xiềng, dựa cột ngoài sân, bị bọn công sai khảo đả
trăm chiều… Chúng gọi Vương Quan lại, cởi bỏ dây trói, lột hết quần áo trơ da
thịt, lấy thừng buộc chặt hai ngón chân cái treo lên cột cho gót chân chấm đất,
ngón chỉ lên trời; lại buộc chặt hai ngón chân cái, đầu dây vứt qua xà, quát một
tiếng: “Kéo!”, hai ba người ra sức kéo cho gót chân Vương Quan cao khỏi mặt đất
hơn năm tấc. Vương Quan… thét lên một tiếng rồi lịm ngất đi. Chúng treo ngược tứ
chi Vương Viên ngoại lên, bụng quay dưới đất, trên lưng chặn một hòn đá to đè nặng
lên 360 đốt xương, đốt nào cũng như muốn rời, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, lỗ
nào cũng rỉ mồ hôi, mặt xám như tro.
Những hành vi dã man, hung bạo đó quá hơn cả bọn cướp.
Bọn tội phạm chính hiệu là cướp kia chỉ bị bắt giam là cùng, chưa bị hành phạt
tàn khốc và khám nhà. Chẳng những thế, bọn công sai còn chia một phần số bạc
Vương Thúy Kiều bán mình chuộc cha mà chúng bóp nặn được cho bọn cướp bị giam.
Người đầu bọn bảo: “Việc
này mà đến cửa quan, nhất định là bị chém chết. Trừ phi một trong hai ngày phải
có ba trăm lạng bạc, một trăm lạng lễ quan sai đi bắt cướp, một trăm lạng đút
cho bọn cướp, bảo chúng khai không dính dáng đến nhà cô, còn một trăm thù lao
cho bọn chúng tôi, có vậy mới xong việc được.”
Đủ thấy nguyên nhân gốc khiến Thúy Kiều buộc phải bán
mình rồi lưu lạc phong trần là do tham quan ô lại bóp nặn, bức hại mà nên. Bọn
chúng tham tiền bẻ queo luật pháp, đảo lộn phải trái, tùy tiện làm oan uổng người,
lấy đó làm cách kiếm tiền.
Nhưng sang tới ngòi bút Nguyễn Du, bọn cướp bị bắt câu
kết với quan lại được sửa thành “thằng
bán tơ”, nguyên nhân nhà họ Vương bị cực hình và bị khám nhà mất của được
quy kết thành “chuyện do tên bán tơ vu
cáo, bịa đặt thành tội” (câu 586). Hành động tàn bạo của lũ công sai và người
đầu bọn được sửa thành không phải do đòi đút lót, mà là “Tuy cũng nha dịch, nhưng có từ tâm/ Thông cảm nàng chí tình, trọng hiếu/
Bất giác thương xót sâu sắc, bèn ngầm thu xếp biện pháp/ Đòi ba trăm lạng bạc
làm tiền phạt kết thúc vụ án” (câu 607 - 611).
Số bạc Thúy Kiều bán mình để đút lót, hối lộ trong
nguyên tác được đổi thành “tiền phạt”
tuy tiếp đó cũng có viết: “Vạn quan tiền
giắt thắt lưng/ Tùy thời đổi được phải trái, trắng đen/ Chung Công (chỉ người
đứng đầu bọn công sai – nguyên chú) cũng sớm liệu sắp xếp/ Tiền đến tay, là kết
thúc kiện tụng chốn phủ quan” (câu 688 - 691). Xét về văn lý, kẻ Nguyễn Du chỉ
trích là tên Mã Bất Tiến (tức Mã Giám Sinh- P.T.C) mạo xưng giàu có (Vạn quan
tiền thắt lưng), bỏ tiền ra lừa mua Thúy Kiều, như thế chẳng những che đậy hoàn
toàn tội ăn hối lộ, bẻ queo phép nước của quan lại mà còn biến công sai thành cứu
tinh giúp đỡ vô tư nhà họ Vương thoát khỏi tai nạn. Sửa đổi như thế rõ ràng là
giữ thể diện cho quan lại phong kiến, chứng tỏ Nguyễn Du đứng trên lập trường
quan lại phong kiến mà cắt bỏ nội dung chống tham quan ô lại của nguyên tác.
b. Tô vẽ cho gia quyến ác nghiệt thâm độc của Thiên quan
Bộ Lại.
Tiểu thuyết nguyên tác miêu tả rõ ràng, nổi bật sự đối
lập giữa các giai cấp, Nguyễn Du đã sửa đổi hết những nội dung này, xuyên tạc
và xóa nhòa mối quan hệ đối lập giai cấp đó, khiến cho giới hạn chính trị có
tính nguyên tắc trở nên mơ hồ không rõ, từ đó tô vẽ cho giai cấp quý tộc quan
liêu mà mình xuất thân. Sau đây là một vài ví dụ:
Tiểu thư họ Hoạn, con gái Thiên quan Bộ Lại trong
nguyên tác làm ra bộ không tin chuyện chồng mình lấy vợ bé ở chỗ khác để dễ bề
ngấm ngầm thi hành kế độc báo thù, nên đã bắt tên gia nô báo tin cho cô ta tự
“vả vào miệng ba chục cái” tiếp đó tra ra tên gia nô Thúc Sô từ Lâm Truy mách
tin đó về, lại lập tức ra lệnh bẻ nghiến bốn cái răng cửa của Thúc Sô, “lệnh
truyền xuống vững như núi, ai dám trái lời? Kẻ lấy rìu, kẻ cầm sắt, trói cả
chân tay, nhất tề động thủ. Thúc Sô thét lên một tiếng, ngất xỉu dưới đất, một
lúc mới tỉnh thì bốn cái răng đã bị bẻ ra”. Đối với hành động tàn bạo áp bức
giai cấp của tiểu thư quý tộc đó, Nguyễn Du sửa lại thành:
Câu 1555:
Tuần
sau có hai người quen [1] ,
Kể
hết điều hay dở của Thúc Sinh
Ngờ
đâu tiểu thư nổi giận đùng đùng:
“Ta
căm giận lời nói láo của mấy người,
Chồng
ta không bao giờ có chuyện đó,
Hẳn
là các người đơm đặt ra đó thôi”.
Tức
thì hạ lệnh,
Bẻ
răng vả miệng hai người, quyết không tha,
Từ
đó, trong ngoài lặng phắc,
Không
còn ai dám tùy tiện nói năng.
Nguyễn Du chuyển nỗi không may của hai người gia nô vô
tội sang cho hai người quen biết nhau với Hoạn Thị, tả Hoạn Thị giở mặt thù hằn
với hai người quen của mình, tàn ngược so với họ, tuy cũng biểu hiện lòng ghen
tuông và tính độc ác dữ dằn của Hoạn Thị, song ý nghĩa áp bức giai cấp không
còn, đồng thời cũng vi phạm tính chân thực, xuyên tạc tính cách của nhân vật
này, khiến người ta khó có thể tin.
Ngoài ra, nguyên tác tỏ ra hết sức căm phẫn đối với
hành vi kẻ cướp bắt cóc Thúy Kiều của bọn đầy tớ hung ác do mẹ con Hoạn Thị sai
đi, cho nên đã đặc biệt đặt tên chúng là “Hoạn
Ưng” và “Hoạn Khuyển” để ngụ ý
chúng là lũ ưng, khuyển của nhà quan. Nguyễn Du đổi tên hai đứa gia nô này
thành “A Ưng và A Khuyển”, là mờ nhạt hàm nghĩa phê phán thân phận chó săn cho
kẻ quyền quý của chúng. Nguyên tác tả Hoạn phu nhân hạ lệnh đánh Thúy Kiều sau
khi nàng bị bắt về Hoạn Phủ, đánh đến nỗi “máu
chảy trôi chày”, ngất đi lại phun nước cho tỉnh rồi đe nẹt ác độc rằng: “Trong phủ ta, đầy tớ gái không dưới hơn ba
trăm đứa, nếu mày có chết, chẳng qua là nhổ một sợi lông trên chiếc thảm mà
thôi. Mày chớ có đem cái chết ra dọa ta”. Bộ mặt nanh ác của kẻ áp bức được
khắc họa hết sức rõ nét. Mụ quản gia già cũng bảo Thúy Kiều: “Nếu cô có chết trong phủ này cũng chưa bằng
chết một con gà, con bò”, đủ thấy nhà họ Hoan áp bức đầy tớ khắc nghiệt như
thế nào. Trước sự áp bức thê thảm, vô nhân đạo đó, ngọn lửa báo thù cũng nhen
nhóm trong lòng Thúy Kiều. Nàng thề rằng: “Ta
lúc sống không trả được oan này thì lúc chết cũng làm ma quỷ để báo thù”.
Sau này, khi Hoạn Thị đưa Thúy Kiều về nhà mình sai bảo, cũng lập riêng một “công đường” để khảo tra, ra oai nghiêm
giọng đe: “Nếu mày bưng bít giấu quanh,
ta đây cho kẹp tay mày lại, trả về cho cụ bà đánh chết tươi mày”. Về sau nhờ
binh lực của Từ Hải báo thù cho mình, Thúy Kiều cũng cho người bắt cóc hai mẹ
con Hoạn Thị đem tới, tự mình phán xét. Phu nhân họ Hoạn sợ mà chết còn Hoạn
Thư tuy được Thúc Sinh xin tha nhưng vẫn bị hình phát xứng đáng:
“Vương
phu nhân…, truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thị ra lột hết áo xiêm, đánh một
trăm roi. Các cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo xiêm, chỉ để
lại cái quần lót, buộc tóc treo trên xà nhà. Hai cung nữ mỗi bên nắm một tay
dang ra, hai cung nữ khác cầm mỗi người một cái roi ngựa, phía trước phía sau
nhất tề chủ động. Một người từ trên quất xuống, một người từ dưới quất lên,
đánh đến nỗi như con chạch rơi xuống đồng tro, như con lươn gặp nồi nước nóng,
luôn miệng kêu trời, giãy giụa loạn xạ, khắp người không còn miếng da nào lành
lặn”.
Cách báo thù như thế tuy có hơi tàn khốc nhưng đó là
do buộc người bị áp bức phải làm, là hành vi chính nghĩa của người nô lệ phản
kháng. Nhưng nội dung đấu tranh giai cấp sống động trên đây sang tới ngòi bút
Nguyễn Du thì hoàn toàn bị làm cho biến dạng. Tả Hoạn phu nhân tra hỏi Thúy Kiều
thì mụ này chỉ ra lệnh: “Hãy đánh ba chục
roi cho biết thủ đoạn của lão nương”. Lời mụ già khuyên Thúy Kiều được đổi
thành: “Thời vận khó ngang bằng/ Thân bồ
liễu, trước hết đành thuận theo mà giữ mình!/ Nghiệp oan kiếp trước đã định/ Sa
chân đến đây đâu phải ngẫu nhiên/ Ở đây tai mắt rất nhiều, làm như chưa từng gặp,
dù thấy người quen/ Sợ rằng sấm sét khôn lường/ Thân kiến biết đâu mà kêu oan”
(câu 1749 - 1756). Lời thề chống đối lại Thúy Kiều biến thành lời than thở, oán
trách và cam chịu: “Kiếp phong trần đã tới
điểm chót/ Không ngờ ngày nay lại thảm hơn nữa/ Sự đời khổ nỗi khó lặng bằng/
sao hồng nhan riêng chịu trời khiển trách?/ Nợ ngày ngay chuộc cho đời trước/
Ví dụ ngọc nát hoa tàn, thôi còn chi!” (Câu 1761 - 1766). Đoạn tả Hoạn Thị
đem Thúy Kiều về nhà làm nhục càng được viết ôn hòa hơn nữa.
Câu 1774:
Thúy
Kiều chỉ có phục tùng mệnh lệnh
Quản
chi nơi đến là địa ngục hay thiên đường.
Ngày
đêm chăm chỉ hầu hạ,
Một
khắc chẳng dám lơ là.
Một
đêm thanh gió mát.
Tiểu
thư hỏi đến tơ trúc cung thương.
Nàng
vâng lời ôm đàn diễn tấu.
Nỉ
non nước chảy động can tràng.
Tiểu
thư nảy lòng thương tiếc,
Nét
oan thấy bớt đôi phân.
Chẳng những thế, Nguyễn Du còn lược bỏ chi tiết Hoạn
Thị gạn hỏi lai lịch Thúy Kiều, mà đổi thành Hoạn Thị giao cho Thúc Sinh tra hỏi
lai lịch (câu 1980) để Thúy Kiều tự viết “một
tờ trình” (câu 1894) xin được quy y cửa Phật. Lời Thúc Sinh khuyên Thúy Kiều
bỏ trốn cũng biến thành:
Câu 1951:
Vốn
toan gian nguy không tránh,
Chung
chăn sống chết đến cùng.
Duy
bởi trung niên mà chưa có con trai,
Lẽ
đáng cùng nàng ly hôn.
Câu 1967:
Tôi
đã suy sâu nghĩ chín,
Nhưng
vợ lớn nham hiểm vô luân.
Vạn
nhất lại giở kết độc,
Oan
khuất đôi ta khó giãi bày.
Khuyên
nàng cao bay xa chạy.
Ân
ái hai ta thế thôi.
Thói nham hiểm của Hoạn Thị chỉ trở thành khả năng “vạn nhất”! Sau này viết đến đoạn Thúy
Kiều báo thù, Nguyễn Du nhẹ nhàng bỏ qua Hoạn phu nhân, căn bản không hề cho
người đi bắt mụ đó. Đối với “thủ phạm”
bức hại Thúy Kiều là Hoạn Thị, Nguyễn Du lại khoan dung, mở cho lọt lưới. Câu
2356:
Thủ phạm nhắc tới đầu tiên, chính danh Hoạn Thị
Thúy
Kiều thoạt thấy gật đầu hỏi han:
“Không
ngờ tiểu thư cũng đến đây!
Trong
đám đàn bà ghê gớm,
Tiểu
thư hung tàn thấp kém nhất.
Người
đàn bà nham hiểm,
Cay
nghiệt lắm, tội đáng đền.”
Hoạn
Thị mười phần kinh hoảng,
Quỳ
dưới trướng, luôn miệng xin tha:
«Đối
xử xưa kia, tự thấy thẹn thùng,
Tất
thảy do tình cảm ghen tuông.
Nhưng
khi phu nhân trốn khỏi phật đường,
Tôi
đã không làm phu nhân khó xử.
Trong
lòng yêu kính,
Chỉ
vì tranh được sủng ái không tránh khỏi xúc phạm tôn nhau.
Biết
rõ tội lỗi,
Chỉ
mong lượng biển bao dung.”
Thúy
Kiều nói: “Thảo nào mọi người khen ngợi,
Quả
thật lanh lợi thông minh, nhiều tài nói giỏi.
Ta
tha cho, để mà tự sửa,
Trừng
phạt nặng e có thiên kiến.
Biết
lỗi chịu sửa cũng chưa muộn,”
Nói
xong, sai tha tại chỗ,
Hoạn
Thư trong lòng cảm phục, hổ thẹn, liến khấu đầu lạy.
Lần bị điệu đến này, Hoạn Thư chẳng những không xây
xát một mảy lông mà còn nhờ chồng là Thúc Sinh được thơm lây. Hai vợ chồng nhận
“gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” của
Thúy Kiều đền ơn Thúc Sinh, chở nặng mà về. Còn đối với kẻ tù xuất thân hèn
kém, Thúy Kiều lại trừng phạt rất nghiêm. Sở dĩ Nguyễn Du viết như thế đương
nhiên xuất phát từ sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là
giai cấp xuất thân của mình. Ông đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của
giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp
thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình. Thúy Kiều đòi hỏi
trả thù nhưng khi thấy kẻ thù thì lại khâm phục tài ăn nói và khen ngợi cô ta
biết sửa lỗi lầm. Cách cải biên ấy rõ ràng đã bóp méo, xuyên tạc nghiêm trọng nội
dung có tính chính trị sâu sắc của nguyên tác.
c) Nguyễn Du coi xuất thân quý tộc và dòng dõi thư
hương của mình như một dấu hiệu vinh dự và tùy tiện gán ghép cho nhân vật chính
diện trong truyện.
Trong nguyên tác, Thúy Kiều là viên ngọc sáng của gia
đình, bình thường, quần áo hai chị em mặc đều đã rung rúc, Nguyễn Du cố tình đổi
gia thế cho hai cô. Thơ viết:
Câu 13:
Người
con trai út
Tên
gọi Vương Quang, nối dòng thư hương nhiều đời.
Sau lúc bán mình, trong khi tưởng nhớ ý trung nhân Kim
Trọng, Thúy Kiều còn như trông thấy “chén
vàng vẫn còn đó” (câu 701). Nếu chén vàng uống chung vẫn còn đó, làm sao
Thúy Kiều lại phải bán mình? Rõ ràng sự sửa chữa lầm lẫn đối với gia thế của
nhân vật đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn không sao giải thích nổi giữa các tình
tiết của câu chuyện. Sau khi Kiều rớt xuống hàng kỹ nữ, Nguyễn Du nhiều lần cho
cô trở thành “tài sắc tuyệt vời” để
cho cô than thở: “Tại sao sinh trưởng
trong gấm vóc, tại sao trở thành hoa bên đường, tùy tay người chơi”. (Câu
1235). Những kiểu miêu tả đó thật không ăn nhập với lời giới thiệu ở đầu truyện
rằng gia đình Vương Thúy Kiều “thường thường
bậc trung”.
Về người yêu của Thúy Kiều là Kim Trọng, tình cảm thiên
lệch của Nguyễn Du lại càng nổi rõ, dường như dựa vào diện mạo của mình để cải
biên nhân vật này. Kim Trọng trong nguyên tác là một “tú tài nhà giàu” trong làng, tức là con trai một tài chủ nhà quê
chứ không phải công tử thế gia dòng dõi cao sang. Nguyễn Du thêm cho chàng ta
dòng dõi thế gia “vốn nhà trâm anh”.
Trong nguyên tác, một mình chàng ta mượn dịp tảo mộ trong tiết Thanh minh để gặp
chị em Thúy Kiều ở đó, Nguyễn Du đổi thành chàng ta dắt theo “vài đứa hậu sinh” (câu 1948) cùng đi, lại
còn nói nhà họ Kim với nhà họ Vương là “hàng
xóm nhiều đời giao hảo” (câu 153). Nếu quả là như thế, khi nhà họ Vương oan
uổng, mắc phải việc quan sao cái nhà “hàng
xóm nhiều đời giao hảo” kia lại không đem tiền bạc, thế lực ra giúp bạn cũng
mà đành trơ mắt nhìn họ Vương bán đứt con gái yêu của mình? Hiển nhiên là do sửa
bừa gia thế của họ Vương dẫn đến làm hỏng tính chân thực của tình tiết.
Đối với nhân vật Thúc Sinh, nguyên tác viết rõ chàng
ta là con trai một nhà buôn, vì người cha “mở
ngôi hàng Lâm Truy” nên mới theo cha đến đó. Nguyễn Du cũng gán cho anh
chàng nòi thư hương và để cho Thúy Kiều cảm thấy mình không xứng làm vợ bé của
Thúc sinh qua câu: “Tự thẹn thân nhơ, e lụy
đến danh vọng nhà chàng” (câu 1357). Trong nguyên tác, Thúy Kiều không có
quan niệm hôn nhân phong kiến phân biệt đẳng cấp gia thế như vậy, cô do dự trước
lời cầu hôn của Thúc Sinh chỉ vì sợ vợ cả không thể khoan dung, rốt cuộc chỉ
làm mình thêm khổ. Điểm sửa chữa của Nguyễn Du đã bôi nhọ hình tượng Thúy Kiều,
khiến hình tượng này có thêm sắc thái tư tưởng của con người tầm thường, phong
kiến.
Lê Nghị ghi chép
[1]
Bản dịch Trung văn tự thêm “người quen” (thục nhân – P.T.C).
Nguồn:
Nguyên văn tiếng Trung đăng trên Minh Thanh tiểu
thuyết luận tùng, số 4 (tháng 6.1986) và số 5 (tháng 9.1987). Bản dịch tiếng Việt
của Phạm Tú Châu.