Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, October 6, 2019

TƯ LIỆU: ĐỔNG VĂN THÀNH NỔ ĐẠI BÁC VÀO TƯỢNG ĐÀI VĂN HOÁ NGUYỄN DU NHƯ THẾ NÀO ? - Lê Nghị





TƯ LIỆU: ĐỔNG VĂN THÀNH NỔ ĐẠI BÁC VÀO TƯỢNG ĐÀI VĂN HOÁ NGUYỄN DU NHƯ THẾ NÀO ?

Trong tranh luận với một người tự xưng là học thuật tay dọc gọi tôi là học thuật Tay Ngang, mà tôi đặt tên là Tín Đồ kéo dài một tuần. Hơn thua là do bạn đọc làm trọng tài, mà vì không có trọng tài chính thức, chỉ có người ủng hộ hai bên, tôi không lạm bàn. Nhưng vì vị này đề nghị vì vị ấy không có thời gian, mỗi bên cứ giữ lập trường nhưng “đừng gọi đến tên nhau”. Đề nghị này tôi chấp nhận, nên chỉ tự xưng là Tay Ngang và gọi vị ấy là Tín Đồ thôi.
Sau đây tôi xin trích bài dịch của Tiến Sĩ Hán Nôm Phạm Tú Châu, một người tôi không quen biết đã khuất nhưng tôi luôn tỏ lòng kính trọng. Vì tôi có một ý nghĩ bà Phạm Tú Châu trên văn đàn cũng đơn độc như bà Phạm Chi Lan trên chính trường. Tôi đăng bài này như là một lần nữa biết ơn bà Phạm Tú Châu, một người phụ nữ đã giúp tôi biết được sự thật.

Sau đây là văn bản của “giáo sĩ” Đồng Văn Thành rao giảng cho các tín đồ Thanh Tâm Tài Nhân. Phần 1 tôi chỉ trích đoạn. Phần 2 nguyên văn. Phần 3 hẹn lần sau. Quý vị nào thấy cần thiết nên lưu suy ngẫm, xem có phải tôi mắc chứng thần kinh yêu nước cực đoan không? Hoặc là dùng làm tư liệu để chỉ cho con cháu cảnh giác trước âm mưu xâm lược văn hoá. Bài dài, các vị có thể đọc từng phần.

Đổng Văn Thành: So Sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.

Phần I:

Muốn phát triển nền văn học xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chúng ta cần phải học tập và tham khảo di sản ưu tú của nước ngoài, nhưng cũng không nên lãng quên gốc gác mà nên tôn trọng và kế thừa di sản văn học ưu tú của dân tộc mình. Dựa trên tinh thần đó, từ lâu tôi đã mong có ngày nhìn thấy Truyện Kim Vân Kiều, cuốn tiểu thuyết Trung Quốc nghe nói đã thất truyền ở trong nước. Năm 1981 bất ngờ phát hiện ra cuốn sách đó ở thư viện Đại Liên, nỗi vui mừng của tôi thật không sao hình dung nổi. Tôi đọc một hơi hết cả cuốn sách và lập tức nảy ra ý nghĩ muốn so sánh nó với Truyện Kiều của Việt Nam.

Sau khi đối chiếu qua lại như trên chúng tôi có được một kết luận rõ ràng, dễ thấy, đó là nhân vật chính cùng tình tiết cốt truyện ở hai bộ Truyện Kiều của Trung Quốc và Việt Nam hoàn toàn giống nhau, kể cả kết cấu tự sự cũng không có chút thay đổi. Chỗ khác nhau chỉ là Truyện Kiều Trung Quốc có bản 12 hồi và bản 20 hồi, còn Truyện Kiều Việt Nam chỉ có bản gồm 12 quyển, không có bản gồm 20 quyển. Tiểu thuyết Truyện Kiều Trung Quốc lưu truyền cuối đời Minh, tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân in đầu đời Thanh còn Truyện Kiều của Việt Nam, Nguyễn Du hoàn thành vào năm thứ hai sau chuyến đi sứ Trung Quốc lần thứ nhất (năm 1815, niên hiệu Gia Khánh năm thứ 20), muộn hơn Truyện Kiều Trung Quốc ít nhất là trên 160 năm. Rõ ràng Nguyễn Du chịu ảnh hưởng tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân chứ quyết không thể ngược lại. Năm 1958, Hội trưởng hội Hữu nghị Việt–Trung Bùi Kỷ viết lời tựa cho bản dịch Truyện Kiều thừa nhận rõ ràng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du lấy đề tài ở tiểu thuyết Trung Quốc”. Qua sự đối chiếu trên đây, nên nói rằng Nguyễn Du chẳng những chỉ “mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc” mà dường như bê nguyên xi; về mặt thuật lại từng trải của nhân vật và viết truyện, Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân mà thôi.

Kết luận

Thông qua so sánh như trên, có thể rút ra kết luận gồm mấy điểm như sau:

1. Nhìn tổng thể, tôi thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du bất luận về nội dung hay về nghệ thuật (Phần II sẽ nói rõ) đều không vượt được trình độ của bản gốc - Truyện Kiều của Trung Quốc - mà nó mô phỏng. Truyện Kiều của Nguyễn Du bảo tồn được phần lớn tinh hoa của nguyên bản tiểu thuyết Trung Quốc tuy có tăng giảm về nội dung và nghệ thuật của nguyên tác, song phần nhiều vẫn bảo tồn được, vì vậy có cống hiến cho sự giao lưu văn hoá giữa Trung Quốc và Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm đáng được khắng định.
2. Truyện Kiều của Trung Quốc bị mai một, thậm chí bị đánh giá thấp trong thời gian dài. Hiện tượng kỳ lạ đó chứng tỏ chúng ta vẫn còn thiếu nhận thức đầy đủ về kho báu văn học nghệ thuật phong phú mà tổ tiên để lại cho chúng ta; công tác nghiên cứu văn học cổ đại về cơ bản vẫn dừng ở một số ít tác giả và tác phẩm nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn mà chưa hứng thú bao nhiêu với tác giả và tác phẩm loại hai. Việc nghiên cứu cô lập đó không thể thích hợp với tình hình phát triển của học thuật hiện nay. Vì vậy, việc đi sâu vào công tác nghiên cứu tiểu thuyết quý giá cuối đời Minh đầu đời Thanh có tác dụng gợi mở quan trọng nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn bộ văn học cổ điển của nước ta.
3. Tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cần được đánh giá lại, ảnh, hưởng quan trọng của nó trong lịch sử văn học Tnmg Quốc và lịch sử văn học thế giới cần được thừa nhận và đánh giá công bằng.
4. Mệnh đề “tiểu thuyết tài tử giai nhân” không thể khái quát một cách khoa học tất cả tiểu thuyết bạch thoại của các văn nhân mà tuyến cốt truyện là tình yêu và hôn nhân. Cần phân tích so sánh nhiều tác phẩm với nhau, nhận thức lại bộ mặt vốn có của số tiểu thuyết này, bổ sung những đoạn còn yếu trong lịch sử tiểu thuyết truyền thống.

Phần II

I. Từ chi tiết xem xét những sai dị

Ở phần I, thông qua so sánh nội dung tổng thể Truyện Kim Vân Kiều của Trung Quốc và Việt Nam, chúng tôi đã nêu những điểm chung rõ rệt giữa hai sách. Muốn biết những điểm khác nhau giữa hai sách, không thể đơn giản như thế là được mà phải phát hiện ra bằng cách so sánh nghiêm túc tất cả những chi tiết không khiến người ta mấy chú ý, sau đó tổng hợp những sai biệt nhỏ nhặt, cục bộ này lại rồi so sánh thì mới có thể thấy rõ những điểm khác nhau trong sự giống nhau, từ đó mới thực sự phân biệt giữa hai sách. Có điều, sự sai biệt về chi tiết giữa hai sách lại rất ít, chủ yếu biểu hiện ở ba phương diện sau đây.

A. Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình cho một số nhân vật, làm tổn hại sự hoàn chỉnh và thống nhất về tính cách của những nhân vật ấy ở mức độ nhất định

1. Hạ thấp anh hùng nổi dậy, tô đẹp cho quan quân tướng soái

Tiểu thuyết nguyên tác khắc hoạ Từ Hải - anh hùng nổi dậy - như một điển hình anh hùng chính nghĩa và trí dũng. Trong truyện, ngay từ lúc xuất hiện, Từ Hải đã không phải tầm thường:

“Có một hảo hán họ Từ tên Hải, hiệu là Minh Sơn hoà thượng, người đất Việt đến chơi. Người này có lòng ưu ái, phóng khoáng đại lượng, ôm chí lớn lao, coi giàu sang nhẹ tựa lông hồng, xem người bằng vai như cỏ rác. Khí tiết hơn hẳn cùng lứa, cao lớn hùng vĩ trùm đời, hiểu rõ lược thao, giỏi giữ ngay thẳng. Thường nói: “Trời cho ta tài năng ắt cho ta sử dụng. Hữu tài vô dụng là trời phụ ta vậy. Nhược bằng hoàng thiên phụ ta thì ta cũng phụ lại hoàng thiên. Đại trượng phu ở đời phải làm sao cho được lỗi lạc, lập được những sự bất hủ trên đời, sao có thể chết già bên cửa sổ như những kẻ sống vì miếng ăn? Còn nếu có tài mà vô mệnh, anh hùng không có đất dụng võ, không để lại được tiếng thơm cho trăm đời thì phải tự mình tạo ra mệnh. Khinh suất gây binh đao nơi ngòi đầm chỉ tổ để lại nỗi sỉ nhục đến vạn năm. Nếu không được như thế thì bầu nhiệt huyết sôi sục trong người này làm thế nào sử dụng được? Hồi nhỏ học hành nhưng không thành đạt bèn bỏ đi buôn, của cải sung túc, thích kết giao với bạn bè”.

Đoạn không tiếc lời ca ngợi để miêu tả tính cách, phấm chất nhân vật như trên không có ở nơi nào khác trong sách ngoài nhân vật chính là Vương Thuý Kiều. Khi Từ Hải gặp được Thúy Kiều, Thúy Kiều thổ lộ mình xưa nay “không đem gan ruột gửi cho kẻ phàm tục”. Ấn tượng đầu tiên của Thuý Kiều đối với Từ Hải là “bậc anh hùng, có độ lượng lớn, xứng đáng là người kỳ lạ ở Thái Nguyên, ngay đến Bình Nguyên Quân cũng không khoáng đạt được bằng”. Vừa gặp mặt, Thuý Kiều bèn xiêu lòng, trao thân gửi phận. Ngay khi đó, Từ Hải đã tỏ rõ chí lớn chống triều đình với Thuý Kiều: “Nàng hãy ở lại đây, không quá ba năm ta sẽ đón nàng về. Đao lớn búa to, cung lắp tên, kiếm tuốt trần, tiền hô hậu ủng, vạn ngựa ngàn quân, ấy là lúc Từ Hải này đắc chí vậy”. Thông qua lời La Trung Quân, sách thấy rõ hơn nguyên nhân chống lại triều đình của Từ Hải: “Đốc phủ hay tin đại vương là kẻ sĩ hào kiệt, không chịu nhục với tham quan ô lại buộc phải làm giặc, tình thực ấy đáng nên tha thứ”. Trong các câu thơ ở đầu mỗi hồi, có ba lần xuất hiện tên hiệu của Từ Hải: “Hội Vu lan bỗng gặp yêu ma thành trụy lạc - Chốn yêu lại đua phong nguyệt gặp anh hùng” (Hồi 17), “Vương phu nhân xử chém phường bất nghĩa - Từ Minh Sơn tặng vàng kẻ có ơn” (Hồi 18), “Chiêu an giả, Minh Sơn mất mạng - Đứt ruột thật, Thuý Kiều quyên sinh” (Hồi 19). Đích thân Từ Hải rửa sạch nỗi oan lớn cho Thuý Kiều, cho nên Thuý Kiều “đứt ruột thật” cũng vì cái chết tàn khốc của Từ Hải, đủ thấy trong con mắt tác giả, Từ Hải ở địa vị cao cả.

Tới ngòi bút của Nguyễn Du, bậc anh hào thảo dã Từ Hải ôm chí lớn ngút trời bị thay đổi thành võ sĩ giang hồ lưu lạc khắp nơi:

Câu 2165:

Có một người khách biên cương,
Người ấy râu hùm, hàm én, mày ngài.
Bỗng tới câu lan du đãng,
Vai rộng, thể mạo hiên ngang.
Dáng vóc anh hùng, tinh thông quyền côn,
Càng thêm tài lược thao cường.
Đội trời đạp đất trang nam tử,
Tên gọi Từ Hải, vốn ở Việt Đông sinh trưởng.
Quen chốn giang hồ, mặc tình lưu lãng,
Nửa vai cầm kiếm, một mái chèo.
Vượt qua núi cao với hải dương.

Do trò chuyện ăn ý với Thuý Kiều, Từ Hải thổ lộ ngay tâm sự của mình với nàng.

Câu 2203:

Một lời nói toạc,
Ta có vạn chung ngàn cỗ ngựa.
Khá cùng nàng hưởng hết vinh hoa.

Trong đoạn này cũng có câu chữ khen ngợi nhưng so với tiểu thuyết nguyên tác thì khí khái tinh thần kém xa. Ở đây ra sức nói về quãng đời lưu lãng của Từ Hải rõ ràng có liên quan tới quãng đời 13 năm lưu lãng của Nguyễn Du ở tỉnh Thái Bình từ 1789 đến 1802. Bản thân Nguyễn Du không hề có thái độ tạo phản, lúc ấy ông coi quân khởi nghĩa nông dân là kẻ thù, rồi sau khi thất bại, thì trở thành kẻ vong mệnh nước mất nhà tan... Vì vậy khi viết về Từ Hải, liền tiện tay cắt bỏ chí hướng và tinh thần của Từ Hải, khiến Từ Hải trở thành nhân vật khái niệm hoá có hình hài mà vô hồn. Quãng thời gian duy nhất Nguyễn Du vất bút tòng nhung là lúc ông giữ chức Thái Nguyên Hùng hậu quân hiệu Chánh Thủ hiệu của vương triều nhà Lê; trong quá trình quân khởi nghĩa nông dân Tây Sơn lật đổ nền thống trị thối nát của vương triều nhà Lê lập nên chính quyền mới của quân khởi nghĩa nông dân, Nguyễn Du “chiêu tập hào mục mưu khôi phục nhà Lê, gây phong trào phục quốc nhưng việc bị lộ, bị trấn tướng Sơn Tây là Thận quận công bắt được..., sau mấy tháng bị giam được tha cho về” (theo Hoàng Dật Cầu: “Nguyễn Du - nhà thơ Việt Nam và kiệt tác Truyện Kim Vân Kiều của ông’’). Sự từng trải đó khiến cho giữa người tạo phản và kẻ trấn áp, Nguyễn Du đã dành sự đồng tình của mình cho kẻ sau, bởi vậy mới có sự khen chê trái ngược hẳn với nguyên tác đối với nhân vật tiêu biểu đó.

Trong tiểu thuyết nguyên tác, Từ Hải bấy lâu vẫn nhờ dựa bọn giặc bên ngoài nghe lời khuyên của Thuý Kiều mới quyết định nhận lời chiêu an của nhà Minh. Còn động cơ thuyết hàng của Thuý Kiều, ngoài lời dụ dỗ của bọn gian tế khuyên lơn những là: “chồng sang vợ rạng, áo gấm về quê” theo lối phong kiến ra, còn xuất phát từ suy nghĩ “lo lắng cho sinh dân” và rõ ràng nàng không tán thành Từ Hải cấu kết với bọn hải khấu nước ngoài để cướp bóc nước nhà. Vì vậy, Thuý Kiều khuyên Từ Hải cũng có một mặt là yêu nước. Nàng nói với Từ Hải:
“Huống chi những kẻ bất lương đâu phải là hạng có thể kết thân lâu dài? Việc làm giặc cũng thực sự bất đắc đĩ, như vậy mà còn luyến tiếc mãi sao?”
Từ Hải cũng cho Vương Thuý Kiều khuyên mình nhận lời chiêu an là có lý:
“Bởi đã chịu sự sắc phong của Minh triều thì không còn coi nước cha mẹ là thù địch nữa... Hiền thay, phu nhân! Nàng vừa trung với vua lại yêu đất nước, mềm dẻo nên việc khiến cho Từ Hải này khỏi làm kẻ tội nhân cho muôn đời, ấy là công phu nhân vậy.”

Sang đến tay Nguyễn Du, chi tiết Từ Hải câu kết với bọn giặc biển nước ngoài ấy nhiễu nước mình đã bị xoá đi, Từ Hải chỉ còn là một người tạo phản bình thường, từ đó mượn việc hạ thấp Từ Hải này mà Nguyễn Du phát tiết tâm lý thù địch của bản thân với khởi nghĩa nông dân. Ông còn mượn lời nhân vật Thuý Kiều trong truyện thơ để nói.

Câu 2493:

Từ khi gây việc binh đao
Đống xương bên sông Vô Định đã cao như núi
Việc gì để tiếng xấu cho ngàn vạn năm?
Vận khí Hoàng Sào đâu có được dài?
Sao bằng quan cao lộc hậu,
Công danh nhanh chóng phi thường.

Cái lối mượn nhân vật trong truyện làm cái loa truyền thanh cho tư tưởng chủ quan của mình chẳng những xuyên tạc hình tượng Thuý Kiều, chữa những lời nói, việc làm yêu nước của nàng thành lời lẽ của một kẻ phản bội, nội gián, làm tan rã khởi nghĩa nông dân từ bên trong, mà còn vu cáo, rủa xả ác độc khởi nghĩa nông dân, hạ thấp hẳn ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.

Tiểu thuyết nguyên tác phơi bày không nể nang và châm biếm chua cay sự thối nát bất tài của tướng soái quan quân. Vương Thuý Kiều từng nói:

“Chỉ vì thái bình đã lâu, dân không biết binh đao. Võ biền quen thói phụng thừa, văn quan quen thói bợ đỡ. Chủ soái không luyện tập lại binh đao, không chiến đấu, vừa nghe tiếng chiêng tiếng trống, vừa thấy cảnh chém giết oai phong, tức thì tay chân luống cuống, người chết chẳng kịp cứu thì còn ai dám cự địch so tài?... Trên miếu đường tuy không có tay hào kiệt mà nơi thảo dã thực có anh hùng.’’

Tác giả ca ngợi quân uy của Từ Hải, chê bai sự bất tài của quan quân, tính khuynh hướng ấy rất rõ. Xin dẫn đoạn miêu tả chiến trận như sau để làm ví dụ:

Minh Sơn dẫn quân trở về Đại Hoang rồi cho quân đi cướp phá bốn phương, binh uy ngày thêm vang dội. Đốc phủ sai viên tướng du kích là Cừu Nhiêu (âm tương tự với cầu xin tha – P.T.C) cùng tham tướng Bốc Tế (âm tương tự với chẳng nên việc – P.T.C) kéo một vạn quân đến nghênh địch, gặp đại quân của Từ Hải ở giữa đường. Từ Minh Sơn bảo với phu nhân:
“Từ trước tới nay quân của ta đến đâu, chưa từng có kẻ nào dám ra nghênh chiến. May mắn hôm nay cánh quân này, để tôi cùng hắn giao đấu một trận thử xem quân chúng ra sao, tướng sĩ mạnh hay yếu. Nàng hãy dốc trận chờ ta chém tướng chặt cờ của chúng, làm vang dậy cái oai hùng của quân ta.”
Sau ba hồi trống, cửa trận đôi bên mở ra. Minh Sơn lên ngựa… quát to:
“Bớ bọn quan quân kia, kẻ nào mạnh hãy ra trận, kẻ nào yếu chớ có tới!’’
Hai tướng Cừu Nhiên, Bốc Tế thấy Từ Minh Sơn oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, cầm búa thúc ngựa, phi qua phi lại, xông tới xông lui trước trận tiền, chẳng khác nào một vị thiên thần hay sát tướng xuống trần gian. Bốc Tế sai Cừu Nhiêu ra coi trận rồi bảo.
“Ông là du kích tướng quân nên xông ra trước.’’

Cừu Nhiên đáp:
“Ông là chánh tướng, tại sao lại đẩy một mình tôi ra trước?’’
Hai người cứ đùn đẩy nhau, chẳng ai dám ra nghênh chiến. Từ Minh Sơn thấy quang cảnh đó quát lên rằng:
“Quan quân như thế kia mà cũng sai chúng mày ra nghênh địch ư? Đợi ta phá nát trại chúng mày.’’
Rồi ngồi xuống ngựa, vung búa trong tay, thét lên một tiếng vang như sấm nổ giữa trời mà rằng.
“Quân ta đâu, theo ta phá trại!’’
Một mình một ngựa, Minh Sơn xông thẳng tới trước mặt Cừu Nhiên. Cừu Nhiên không dám đón đỡ, sai viên Thứ Bị là Không Hỗn nghênh chiến. Không Hỗn bất đắc dĩ cầm giáo lên ngựa đón đánh. Từ Minh Sơn quát to:
“Tên quan chó má hãy tới chịu chết!’’
Nói rồi phóng ngựa xông tới, Không Hỗn sởn người ngã quay xuống ngựa, Minh Sơn rượt theo, vung búa chém đứt làm đôi rồi xua quân chém giết. Cừu Nhiêu, Bốc Tế ôm đầu chạy trốn, chẳng còn dám nghênh chiến. Cảnh thảm bại của quan quân trông thật đáng thương…
Quan quân đã thua. Từ Hải thắng tiến lên, chưa đầy ba ngày đã phá xong năm huyện, quân uy vang dội.

Rõ ràng khi miêu tả cuộc chiến này, tác giả đứng trên lập trường ngợi ca quân đội của Từ Hải, nhiều lần dùng lối văn so sánh để đề cao, khoa trương quân uy của Từ Hải và kết luận bằng mấy câu thơ:

Thiên tử thất kinh doanh Tế Liễu
Tướng quân ngâm ngợi trướng Liên Hoa
Chỉ vì binh pháp thông trời đất
Rồng hổ náu mình chẳng dám ra.

Còn dưới ngòi bút của Nguyễn Du, ưu thế áp đảo tuyệt đối quân đội triều đình đó của Từ Hải giảm nhẹ rất nhiều. Câu 2430:

Từ sau đó – chiến quả liền liền,
Chia văn võ, vạch ranh giới sơn xuyên.
Khí tượng vạn nghìn,
Giơ chân đạp đổ cõi nam năm huyện.
Phong trần lắm chuyện, gươm báu như cầu vồng.
Coi quan quân giá áo túi cơm, sâu bọ côn trùng.

Nếu nói đoạn miêu tả trên đây về cơ bản là biểu hiện hàm súc khí thế của Từ Hải thì đoạn khen ngợi tướng lĩnh quan quân dưới đây quả đã đi ngược lại tinh thần của nguyên tác. Câu 2451:

Bỗng có một vị Tổng đốc, triều đình coi trọng,
Tên gọi Hồ Tôn Hiến, tài đức lớn gồm chung.
Vâng chỉ ra quân lọt mắt chín trùng,
Dẹp trừ giặc biển, quân sự toàn quyền thao túng.

Viết lại như thế chẳng những xóa bỏ toàn bộ lối châm biếm quan quân tướng lĩnh cùng lối miêu tả tô đậm binh uy của Từ Hải trong tiểu thuyết nguyên tác mà còn tả Đốc phủ Từ Hải đánh cho quân lính tan tác mà còn cả Đốc phủ bị Từ Hải đánh cho quân lính tan tác thành nhân vật có bàn tay sắt xoay chuyển được thế bại của quan quân; khi hắn nhận lệnh vào lúc nguy nan, Nguyễn Du tả hắn dựa hoàn toàn vào mưu trí khiến cho Từ Hải hoành hành một thời cũng thảm bại như bỡn, mạng toi, quân rã. Về thực chất, tả như thế là dùng Từ Hải để làm nổi bật tài lược và công lao của Đốc phủ.

Đốc phủ trong tiểu thuyết, võ chẳng thắng nổi người, đức không dung được ai, giết kẻ hàng, cướp lấy công, hoang dâm ngang ngược, là một kẻ tầm thường, gian nịnh. Ra sức tô vẽ hắn, hẳn việc đó cũng cùng chung một mạch với hành vi góp nhặt đội quân phản động để chống lại khởi nghĩa nông dân Tây Sơn của Nguyễn Du năm nào, hé lộ một cách khéo léo lập trường của giai cấp quý tộc quan liêu chống khởi nghĩa nông dân của ông. Thái độ tương phản đối với nhân vật trong nguyên tác của Nguyễn Du khiến truyện thơ do ông cải tác thêm nội dung phản động là tô vẽ kẻ thống trị quý tộc phong kiến, chống đối khởi nghĩa nông dân, từ đó làm suy yếu hẳn sức phê phán đối với sự thống trị phong kiến đen tối.

2. Tô vẽ cho tội ác của quý tộc phong kiến, che đậy phần miêu tả mâu thuẫn giai cấp của nguyên tác

Sau đây chỉ nêu 3 thí dụ:
a. Thay đổi lại nguyên nhân Vương Thúy Kiều bán mình.
Tiểu thuyết nguyên tác viết, sau khi cha mẹ Vương Thúy Kiều tới nhà dượng của cô dự lễ mừng thọ, về tới nhà bảo Thúy Kiều:
“Con ơi! Nguy rồi! Dượng con cho hai thằng bán tơ ở trong nhà, không biết chúng là cướp, khi chúng bán tơ bị nguyên chủ nhận ra đưa đi thưa quan, quan một mực cho dượng con là kẻ oa trữ. Cha mấy bữa cùng ngồi uống rượu với chúng, chỉ sợ bị chúng khai liều làm hại.”
Dương Binh mã thuộc Ty Binh mã trong thành chỉ dựa vào lời phạm nhân khai là có dính dáng đến Vương Viên ngoại, không cần xét thật giả đã lập tức lợi dụng khẩu cũng gian dối này làm cớ, sai ngay bảy, tám tên sai nha xông vào nhà họ Vương vơ vét của cải, dùng cực hình tra hỏi.
Công sai chẳng cần phân giải, bắt luôn hai cha con Vương Viên ngoại trói ghì vào cột rồi quát bảo nhau: “Khám tang vật”. Tìm khắp trước sau, trong ngoài, dưới bếp, nhà tiêu, sục vào mọi chỗ. Hòm xiểng, tủ giả, mở hết ra, thứ gì đáng giá ít nhiều, chúng đều thu hết. Vương Bà vừa mừng thọ về, trên người mặc bộ quần áo mới, chúng cũng lột lấy, đồ trang sức trâm thoa cũng không sót một thứ gì. Thấy quần áo Thúy Kiều, Thúy Vân dẫu đã cũ nhưng là hàng tơ, cũng bắt lột ra… Đáng thương cho một gia đình đang yên lành mà phút chốc tan tành như bể tuyết núi băng.

Hai cha con Vương Viên ngoại đầu tóc rối bù, chân không giày dép, tay trói chân xiềng, dựa cột ngoài sân, bị bọn công sai khảo đả trăm chiều… Chúng gọi Vương Quan lại, cởi bỏ dây trói, lột hết quần áo trơ da thịt, lấy thừng buộc chặt hai ngón chân cái treo lên cột cho gót chân chấm đất, ngón chỉ lên trời; lại buộc chặt hai ngón chân cái, đầu dây vứt qua xà, quát một tiếng: “Kéo!”, hai ba người ra sức kéo cho gót chân Vương Quan cao khỏi mặt đất hơn năm tấc. Vương Quan… thét lên một tiếng rồi lịm ngất đi. Chúng treo ngược tứ chi Vương Viên ngoại lên, bụng quay dưới đất, trên lưng chặn một hòn đá to đè nặng lên 360 đốt xương, đốt nào cũng như muốn rời, tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông, lỗ nào cũng rỉ mồ hôi, mặt xám như tro.

Những hành vi dã man, hung bạo đó quá hơn cả bọn cướp. Bọn tội phạm chính hiệu là cướp kia chỉ bị bắt giam là cùng, chưa bị hành phạt tàn khốc và khám nhà. Chẳng những thế, bọn công sai còn chia một phần số bạc Vương Thúy Kiều bán mình chuộc cha mà chúng bóp nặn được cho bọn cướp bị giam.
Người đầu bọn bảo: “Việc này mà đến cửa quan, nhất định là bị chém chết. Trừ phi một trong hai ngày phải có ba trăm lạng bạc, một trăm lạng lễ quan sai đi bắt cướp, một trăm lạng đút cho bọn cướp, bảo chúng khai không dính dáng đến nhà cô, còn một trăm thù lao cho bọn chúng tôi, có vậy mới xong việc được.”

Đủ thấy nguyên nhân gốc khiến Thúy Kiều buộc phải bán mình rồi lưu lạc phong trần là do tham quan ô lại bóp nặn, bức hại mà nên. Bọn chúng tham tiền bẻ queo luật pháp, đảo lộn phải trái, tùy tiện làm oan uổng người, lấy đó làm cách kiếm tiền.
Nhưng sang tới ngòi bút Nguyễn Du, bọn cướp bị bắt câu kết với quan lại được sửa thành “thằng bán tơ”, nguyên nhân nhà họ Vương bị cực hình và bị khám nhà mất của được quy kết thành “chuyện do tên bán tơ vu cáo, bịa đặt thành tội” (câu 586). Hành động tàn bạo của lũ công sai và người đầu bọn được sửa thành không phải do đòi đút lót, mà là “Tuy cũng nha dịch, nhưng có từ tâm/ Thông cảm nàng chí tình, trọng hiếu/ Bất giác thương xót sâu sắc, bèn ngầm thu xếp biện pháp/ Đòi ba trăm lạng bạc làm tiền phạt kết thúc vụ án” (câu 607 - 611).
Số bạc Thúy Kiều bán mình để đút lót, hối lộ trong nguyên tác được đổi thành “tiền phạt” tuy tiếp đó cũng có viết: “Vạn quan tiền giắt thắt lưng/ Tùy thời đổi được phải trái, trắng đen/ Chung Công (chỉ người đứng đầu bọn công sai – nguyên chú) cũng sớm liệu sắp xếp/ Tiền đến tay, là kết thúc kiện tụng chốn phủ quan” (câu 688 - 691). Xét về văn lý, kẻ Nguyễn Du chỉ trích là tên Mã Bất Tiến (tức Mã Giám Sinh- P.T.C) mạo xưng giàu có (Vạn quan tiền thắt lưng), bỏ tiền ra lừa mua Thúy Kiều, như thế chẳng những che đậy hoàn toàn tội ăn hối lộ, bẻ queo phép nước của quan lại mà còn biến công sai thành cứu tinh giúp đỡ vô tư nhà họ Vương thoát khỏi tai nạn. Sửa đổi như thế rõ ràng là giữ thể diện cho quan lại phong kiến, chứng tỏ Nguyễn Du đứng trên lập trường quan lại phong kiến mà cắt bỏ nội dung chống tham quan ô lại của nguyên tác.

b. Tô vẽ cho gia quyến ác nghiệt thâm độc của Thiên quan Bộ Lại.
Tiểu thuyết nguyên tác miêu tả rõ ràng, nổi bật sự đối lập giữa các giai cấp, Nguyễn Du đã sửa đổi hết những nội dung này, xuyên tạc và xóa nhòa mối quan hệ đối lập giai cấp đó, khiến cho giới hạn chính trị có tính nguyên tắc trở nên mơ hồ không rõ, từ đó tô vẽ cho giai cấp quý tộc quan liêu mà mình xuất thân. Sau đây là một vài ví dụ:

Tiểu thư họ Hoạn, con gái Thiên quan Bộ Lại trong nguyên tác làm ra bộ không tin chuyện chồng mình lấy vợ bé ở chỗ khác để dễ bề ngấm ngầm thi hành kế độc báo thù, nên đã bắt tên gia nô báo tin cho cô ta tự “vả vào miệng ba chục cái” tiếp đó tra ra tên gia nô Thúc Sô từ Lâm Truy mách tin đó về, lại lập tức ra lệnh bẻ nghiến bốn cái răng cửa của Thúc Sô, “lệnh truyền xuống vững như núi, ai dám trái lời? Kẻ lấy rìu, kẻ cầm sắt, trói cả chân tay, nhất tề động thủ. Thúc Sô thét lên một tiếng, ngất xỉu dưới đất, một lúc mới tỉnh thì bốn cái răng đã bị bẻ ra”. Đối với hành động tàn bạo áp bức giai cấp của tiểu thư quý tộc đó, Nguyễn Du sửa lại thành:

Câu 1555:

Tuần sau có hai người quen [1] ,
Kể hết điều hay dở của Thúc Sinh
Ngờ đâu tiểu thư nổi giận đùng đùng:
“Ta căm giận lời nói láo của mấy người,
Chồng ta không bao giờ có chuyện đó,
Hẳn là các người đơm đặt ra đó thôi”.
Tức thì hạ lệnh,
Bẻ răng vả miệng hai người, quyết không tha,
Từ đó, trong ngoài lặng phắc,
Không còn ai dám tùy tiện nói năng.

Nguyễn Du chuyển nỗi không may của hai người gia nô vô tội sang cho hai người quen biết nhau với Hoạn Thị, tả Hoạn Thị giở mặt thù hằn với hai người quen của mình, tàn ngược so với họ, tuy cũng biểu hiện lòng ghen tuông và tính độc ác dữ dằn của Hoạn Thị, song ý nghĩa áp bức giai cấp không còn, đồng thời cũng vi phạm tính chân thực, xuyên tạc tính cách của nhân vật này, khiến người ta khó có thể tin.

Ngoài ra, nguyên tác tỏ ra hết sức căm phẫn đối với hành vi kẻ cướp bắt cóc Thúy Kiều của bọn đầy tớ hung ác do mẹ con Hoạn Thị sai đi, cho nên đã đặc biệt đặt tên chúng là “Hoạn Ưng” “Hoạn Khuyển” để ngụ ý chúng là lũ ưng, khuyển của nhà quan. Nguyễn Du đổi tên hai đứa gia nô này thành “A Ưng và A Khuyển”, là mờ nhạt hàm nghĩa phê phán thân phận chó săn cho kẻ quyền quý của chúng. Nguyên tác tả Hoạn phu nhân hạ lệnh đánh Thúy Kiều sau khi nàng bị bắt về Hoạn Phủ, đánh đến nỗi “máu chảy trôi chày”, ngất đi lại phun nước cho tỉnh rồi đe nẹt ác độc rằng: “Trong phủ ta, đầy tớ gái không dưới hơn ba trăm đứa, nếu mày có chết, chẳng qua là nhổ một sợi lông trên chiếc thảm mà thôi. Mày chớ có đem cái chết ra dọa ta”. Bộ mặt nanh ác của kẻ áp bức được khắc họa hết sức rõ nét. Mụ quản gia già cũng bảo Thúy Kiều: “Nếu cô có chết trong phủ này cũng chưa bằng chết một con gà, con bò”, đủ thấy nhà họ Hoan áp bức đầy tớ khắc nghiệt như thế nào. Trước sự áp bức thê thảm, vô nhân đạo đó, ngọn lửa báo thù cũng nhen nhóm trong lòng Thúy Kiều. Nàng thề rằng: “Ta lúc sống không trả được oan này thì lúc chết cũng làm ma quỷ để báo thù”. Sau này, khi Hoạn Thị đưa Thúy Kiều về nhà mình sai bảo, cũng lập riêng một “công đường” để khảo tra, ra oai nghiêm giọng đe: “Nếu mày bưng bít giấu quanh, ta đây cho kẹp tay mày lại, trả về cho cụ bà đánh chết tươi mày”. Về sau nhờ binh lực của Từ Hải báo thù cho mình, Thúy Kiều cũng cho người bắt cóc hai mẹ con Hoạn Thị đem tới, tự mình phán xét. Phu nhân họ Hoạn sợ mà chết còn Hoạn Thư tuy được Thúc Sinh xin tha nhưng vẫn bị hình phát xứng đáng:

“Vương phu nhân…, truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thị ra lột hết áo xiêm, đánh một trăm roi. Các cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi ra, lột hết áo xiêm, chỉ để lại cái quần lót, buộc tóc treo trên xà nhà. Hai cung nữ mỗi bên nắm một tay dang ra, hai cung nữ khác cầm mỗi người một cái roi ngựa, phía trước phía sau nhất tề chủ động. Một người từ trên quất xuống, một người từ dưới quất lên, đánh đến nỗi như con chạch rơi xuống đồng tro, như con lươn gặp nồi nước nóng, luôn miệng kêu trời, giãy giụa loạn xạ, khắp người không còn miếng da nào lành lặn”.

Cách báo thù như thế tuy có hơi tàn khốc nhưng đó là do buộc người bị áp bức phải làm, là hành vi chính nghĩa của người nô lệ phản kháng. Nhưng nội dung đấu tranh giai cấp sống động trên đây sang tới ngòi bút Nguyễn Du thì hoàn toàn bị làm cho biến dạng. Tả Hoạn phu nhân tra hỏi Thúy Kiều thì mụ này chỉ ra lệnh: “Hãy đánh ba chục roi cho biết thủ đoạn của lão nương”. Lời mụ già khuyên Thúy Kiều được đổi thành: “Thời vận khó ngang bằng/ Thân bồ liễu, trước hết đành thuận theo mà giữ mình!/ Nghiệp oan kiếp trước đã định/ Sa chân đến đây đâu phải ngẫu nhiên/ Ở đây tai mắt rất nhiều, làm như chưa từng gặp, dù thấy người quen/ Sợ rằng sấm sét khôn lường/ Thân kiến biết đâu mà kêu oan” (câu 1749 - 1756). Lời thề chống đối lại Thúy Kiều biến thành lời than thở, oán trách và cam chịu: “Kiếp phong trần đã tới điểm chót/ Không ngờ ngày nay lại thảm hơn nữa/ Sự đời khổ nỗi khó lặng bằng/ sao hồng nhan riêng chịu trời khiển trách?/ Nợ ngày ngay chuộc cho đời trước/ Ví dụ ngọc nát hoa tàn, thôi còn chi!” (Câu 1761 - 1766). Đoạn tả Hoạn Thị đem Thúy Kiều về nhà làm nhục càng được viết ôn hòa hơn nữa.

Câu 1774:

Thúy Kiều chỉ có phục tùng mệnh lệnh
Quản chi nơi đến là địa ngục hay thiên đường.
Ngày đêm chăm chỉ hầu hạ,
Một khắc chẳng dám lơ là.
Một đêm thanh gió mát.
Tiểu thư hỏi đến tơ trúc cung thương.
Nàng vâng lời ôm đàn diễn tấu.
Nỉ non nước chảy động can tràng.
Tiểu thư nảy lòng thương tiếc,
Nét oan thấy bớt đôi phân.

Chẳng những thế, Nguyễn Du còn lược bỏ chi tiết Hoạn Thị gạn hỏi lai lịch Thúy Kiều, mà đổi thành Hoạn Thị giao cho Thúc Sinh tra hỏi lai lịch (câu 1980) để Thúy Kiều tự viết “một tờ trình” (câu 1894) xin được quy y cửa Phật. Lời Thúc Sinh khuyên Thúy Kiều bỏ trốn cũng biến thành:

Câu 1951:

Vốn toan gian nguy không tránh,
Chung chăn sống chết đến cùng.
Duy bởi trung niên mà chưa có con trai,
Lẽ đáng cùng nàng ly hôn.

Câu 1967:

Tôi đã suy sâu nghĩ chín,
Nhưng vợ lớn nham hiểm vô luân.
Vạn nhất lại giở kết độc,
Oan khuất đôi ta khó giãi bày.
Khuyên nàng cao bay xa chạy.
Ân ái hai ta thế thôi.

Thói nham hiểm của Hoạn Thị chỉ trở thành khả năng “vạn nhất”! Sau này viết đến đoạn Thúy Kiều báo thù, Nguyễn Du nhẹ nhàng bỏ qua Hoạn phu nhân, căn bản không hề cho người đi bắt mụ đó. Đối với “thủ phạm” bức hại Thúy Kiều là Hoạn Thị, Nguyễn Du lại khoan dung, mở cho lọt lưới. Câu 2356:

Thủ phạm nhắc tới đầu tiên, chính danh Hoạn Thị
Thúy Kiều thoạt thấy gật đầu hỏi han:
“Không ngờ tiểu thư cũng đến đây!
Trong đám đàn bà ghê gớm,
Tiểu thư hung tàn thấp kém nhất.
Người đàn bà nham hiểm,
Cay nghiệt lắm, tội đáng đền.”
Hoạn Thị mười phần kinh hoảng,
Quỳ dưới trướng, luôn miệng xin tha:
«Đối xử xưa kia, tự thấy thẹn thùng,
Tất thảy do tình cảm ghen tuông.
Nhưng khi phu nhân trốn khỏi phật đường,
Tôi đã không làm phu nhân khó xử.
Trong lòng yêu kính,
Chỉ vì tranh được sủng ái không tránh khỏi xúc phạm tôn nhau.
Biết rõ tội lỗi,
Chỉ mong lượng biển bao dung.”

Thúy Kiều nói: “Thảo nào mọi người khen ngợi,
Quả thật lanh lợi thông minh, nhiều tài nói giỏi.
Ta tha cho, để mà tự sửa,
Trừng phạt nặng e có thiên kiến.
Biết lỗi chịu sửa cũng chưa muộn,”
Nói xong, sai tha tại chỗ,
Hoạn Thư trong lòng cảm phục, hổ thẹn, liến khấu đầu lạy.

Lần bị điệu đến này, Hoạn Thư chẳng những không xây xát một mảy lông mà còn nhờ chồng là Thúc Sinh được thơm lây. Hai vợ chồng nhận “gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” của Thúy Kiều đền ơn Thúc Sinh, chở nặng mà về. Còn đối với kẻ tù xuất thân hèn kém, Thúy Kiều lại trừng phạt rất nghiêm. Sở dĩ Nguyễn Du viết như thế đương nhiên xuất phát từ sự đồng tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình. Ông đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình. Thúy Kiều đòi hỏi trả thù nhưng khi thấy kẻ thù thì lại khâm phục tài ăn nói và khen ngợi cô ta biết sửa lỗi lầm. Cách cải biên ấy rõ ràng đã bóp méo, xuyên tạc nghiêm trọng nội dung có tính chính trị sâu sắc của nguyên tác.

c) Nguyễn Du coi xuất thân quý tộc và dòng dõi thư hương của mình như một dấu hiệu vinh dự và tùy tiện gán ghép cho nhân vật chính diện trong truyện.

Trong nguyên tác, Thúy Kiều là viên ngọc sáng của gia đình, bình thường, quần áo hai chị em mặc đều đã rung rúc, Nguyễn Du cố tình đổi gia thế cho hai cô. Thơ viết:

Câu 13:

Người con trai út
Tên gọi Vương Quang, nối dòng thư hương nhiều đời.

Sau lúc bán mình, trong khi tưởng nhớ ý trung nhân Kim Trọng, Thúy Kiều còn như trông thấy “chén vàng vẫn còn đó” (câu 701). Nếu chén vàng uống chung vẫn còn đó, làm sao Thúy Kiều lại phải bán mình? Rõ ràng sự sửa chữa lầm lẫn đối với gia thế của nhân vật đã làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn không sao giải thích nổi giữa các tình tiết của câu chuyện. Sau khi Kiều rớt xuống hàng kỹ nữ, Nguyễn Du nhiều lần cho cô trở thành “tài sắc tuyệt vời” để cho cô than thở: “Tại sao sinh trưởng trong gấm vóc, tại sao trở thành hoa bên đường, tùy tay người chơi”. (Câu 1235). Những kiểu miêu tả đó thật không ăn nhập với lời giới thiệu ở đầu truyện rằng gia đình Vương Thúy Kiều “thường thường bậc trung”.

Về người yêu của Thúy Kiều là Kim Trọng, tình cảm thiên lệch của Nguyễn Du lại càng nổi rõ, dường như dựa vào diện mạo của mình để cải biên nhân vật này. Kim Trọng trong nguyên tác là một “tú tài nhà giàu” trong làng, tức là con trai một tài chủ nhà quê chứ không phải công tử thế gia dòng dõi cao sang. Nguyễn Du thêm cho chàng ta dòng dõi thế gia “vốn nhà trâm anh”. Trong nguyên tác, một mình chàng ta mượn dịp tảo mộ trong tiết Thanh minh để gặp chị em Thúy Kiều ở đó, Nguyễn Du đổi thành chàng ta dắt theo “vài đứa hậu sinh” (câu 1948) cùng đi, lại còn nói nhà họ Kim với nhà họ Vương là “hàng xóm nhiều đời giao hảo” (câu 153). Nếu quả là như thế, khi nhà họ Vương oan uổng, mắc phải việc quan sao cái nhà “hàng xóm nhiều đời giao hảo” kia lại không đem tiền bạc, thế lực ra giúp bạn cũng mà đành trơ mắt nhìn họ Vương bán đứt con gái yêu của mình? Hiển nhiên là do sửa bừa gia thế của họ Vương dẫn đến làm hỏng tính chân thực của tình tiết.

Đối với nhân vật Thúc Sinh, nguyên tác viết rõ chàng ta là con trai một nhà buôn, vì người cha “mở ngôi hàng Lâm Truy” nên mới theo cha đến đó. Nguyễn Du cũng gán cho anh chàng nòi thư hương và để cho Thúy Kiều cảm thấy mình không xứng làm vợ bé của Thúc sinh qua câu: “Tự thẹn thân nhơ, e lụy đến danh vọng nhà chàng” (câu 1357). Trong nguyên tác, Thúy Kiều không có quan niệm hôn nhân phong kiến phân biệt đẳng cấp gia thế như vậy, cô do dự trước lời cầu hôn của Thúc Sinh chỉ vì sợ vợ cả không thể khoan dung, rốt cuộc chỉ làm mình thêm khổ. Điểm sửa chữa của Nguyễn Du đã bôi nhọ hình tượng Thúy Kiều, khiến hình tượng này có thêm sắc thái tư tưởng của con người tầm thường, phong kiến.

                                                        Lê Nghị ghi chép

[1] Bản dịch Trung văn tự thêm “người quen” (thục nhân – P.T.C).
Nguồn:
 Nguyên văn tiếng Trung đăng trên Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng, số 4 (tháng 6.1986) và số 5 (tháng 9.1987). Bản dịch tiếng Việt của Phạm Tú Châu.

No comments: