QUẺ
DỊCH: CÁCH LẬP VÀ GIẢI ĐOÁN (tt)
(Bài 4)
Nguyên Lạc
C.
GIẢI ĐOÁN QUẺ
"Quẻ
vạch đã lập, liền có lành dữ vì là Âm Dương đi lại giao thác ở trong. Thời của
nó thì có tiêu đi, lớn lên khác nhau: cái lớn lên là chủ, cái tiêu đi là khách;
việc của nó hoặc có nên chăng khác nhau, cái nên là thiện, cái chăng là ác.
Theo chỗ chủ khách thiện ác mà phân biệt thì sự lành, dữ sẽ rõ. Vì vậy nói rằng:
Tám Quẻ định sự lành dữ. Sự lành dữ đã quyết định không sai, thì dùng nó để dựng
các việc, nghiệp lớn sẽ từ đó sinh ra. Đó là thánh nhân làm ra Kinh Dịch, dạy
dân xem bói, để mở cái ngu của thiên hạ, để định cái chí của thiên hạ, để làm
nên các việc của thiên hạ, là thế. Có điều từ Phục Hy về trước chỉ có sáu vạch,
chưa có văn tự truyền được; rồi đến Văn vương Chu công mới đèo thêm lời, cho
nên nói rằng: “Thánh nhân đặt quái xem Tượng, đèo Lời vào để tỏ lành dữ”. Khi
Quẻ chưa vạch, nhân xem pháp tượng tự nhiên của trời đất mà vạch ra; đến lúc Quẻ
đã vạch rồi, thì quẻ nào riêng có Tượng của quẻ ấy. Tượng nghĩa là có chỗ giống
giống, cho nên thánh nhân mới theo tượng đó mà đặt ra tên. Văn vương coi hình
tượng của quái thể mà làm Thoán từ. Chu công coi sự biến đổi của quái hào, mà
làm Hào từ, cái Tượng của sự lành dữ lại càng rõ rệt." (Ngô Tất Tố)
Như đã biết ở trên, Thoán từ và Hào từ quá đơn giản, ít ai hiểu, nên người đời sau
phải chú thích thêm, tổng hợp thành bản
Thập dực. . Thập dực còn được gọi là Thập truyện (truyện là giải thích). Đại truyện giải
thích Thoán từ, Tiểu truyện giải thích Hào
từ.
Sau khi lập được quẻ, ta đối chiếu với Kinh Dịch để tìm ra
quẻ tương ứng. Căn cứ vào lời lẽ của quẻ
trong Kinh (Thoán từ, Hào từ và Thập truyện) ta có thể xác định được cát hung họa
phúc, đồng thời tìm ra biện pháp đối ứng.
Một số thuật ngữ cần biết:
Tứ Đức: Đọc các quẻ, chúng ta sẽ gặp những chữ này: nguyên,
hanh, lợi, trinh, mà Chu Dịch gọi là tứ đức, có thể hiểu là bốn đặc tính của
các quẻ.
Ý nghĩa thông thường của tứ đức đó như sau:
- Nguyên là đầu tiên, lớn, trùm mọi điều thiện.
- Hanh là hanh thông, thuận tiện, tập hợp các điều hay.
- Lợi là nên, thỏa thích, hòa hợp các điều phải.
- Trinh là chính, bền chặt, gốc của mọi việc.
Và vài chữ khác: Cát
(một quẻ cát) nghĩa là tốt lành. Hung
ngược lại với cát, xấu nhất. Hối là lỗi,
ăn ăn. Lận là lỗi nhỏ, tiếc. Vô cữu là
không có lỗi hoặc lỗi không về ai cả.
1/ Quẻ tĩnh
Khi đọc giải quẻ, nếu trong 6 hào không có hiện tượng hào biến:
-- xem tên quẻ, tượng quẻ, thoán từ, thoán truyện để đoán định.
-- Không xem hào từ.
2/ Quẻ có hào động (hào biến)
Khi trong quẻ có hào động phải căn cứ theo các nguyên tắc
sau:
-- xem tên quẻ, tượng quẻ, thoán từ và thoán truyện của quẻ
chủ (quẻ gốc)
-- xem hào từ của hào động quẻ chủ
-- xem thoán truyện của quẻ biến
Hào động rất quan trọng vì nó chỉ ra cát hung, được thua,
còn mất... và chỉ ra nguyên nhân cùng cách ứng biến. Phải lấy hào từ của nó làm
chủ (làm chính) dù nghĩa có ngược với thoán từ, thoán truyện!
Cách chọn hào chủ (hào từ) của các hào động
-- Khi có 1 hào động:
xem hào từ của hào động đó
-- Khi có 2 hào động: Dựa vào hào từ của 2 hào biến trong quẻ
biến để đoán định, đồng thời dựa vào hào biến phía trên để làm chủ (hào chủ) nếu
2 hào khác nhau, hào biến phía dưới làm
chủ nếu 2 hào giống nhau.
-- Khi có 3 hào động: Nếu hào biến không bao gồm hào sơ thì
lấy quẻ gốc làm chính, nếu hào biến gồm cả hào sơ thì lấy quẻ biến làm chính và
xem hào biến ở giữa là chủ.
-- Khi có 4 hào động: Dựa vào hai hào tĩnh (không biến) để
đoán định, đồng thời dựa vào hào tĩnh phía dưới làm chủ nếu 2 hào giống nhau, hào tĩnh phía trên để làm chủ nếu 2 hào khác nhau
-- Khi có 5 hào động: Dựa vào hào tĩnh (không biến) của quẻ biến để đoán định.
-- Khi cả 6 hào đều động: Quẻ Càn thì dùng hào từ "dụng
cửu", quẻ Khôn thì dùng hào từ "dụng lục" để đoán định. Các quẻ
còn lại thì dựa vào quái từ và thoán từ, tượng từ, thoán truyện của quẻ biến để
đoán định.
Trong sách bói, lý số, ngoài việc tìm biến quái người ta còn dùng Quẻ hỗ (Hỗ quái):
Cách lập thành hỗ quái :
- Trừ hào trên cùng, lấy từ hào 5 xuống ( 5,4,3), để lập ngoại
quái
- Trừ hào dưới cùng,
lấy từ hào 2 trở lên (2,3,4) để lập nội quái
Thí dụ: Quẻ Sơn Hỏa
Bí trên (quẻ chủ), hào 5 (âm) là hào động, đổi âm thành dương thành quẻ biến là
Phong Hỏa Gia Nhân và có quẻ hỗ là Lôi Thủy Giải
䷕ ䷧ ䷤
quẻ chủ quẻ hỗ quẻ biến
Sơn Hỏa Bí Lôi Thủy Giải Phong Hỏa Gia Nhân
Nhiệm vụ các quẻ:
-- Quẻ chủ (quẻ gốc) là chủ của sự việc, cũng là giai đoạn đầu
-- Quẻ hỗ là sự hỗ trợ để tìm diễn biến của sự việc, cũng là
giai đoạn trung gian.
-- Quẻ biến là chung cuộc, là kết quả.
Phải lấy quẻ chủ làm trung tâm, không được phân tán, xa rời.
Khi không cần thiết thì không cần xem quẻ hỗ và quẻ biến.
***
Để hiểu thêm về phương pháp
đoán quẻ, chúng tôi trích một số mẩu chuyện sau đây để các bạn tham khảo.
1- C. G. Jung bói về việc viết Lời Giới thiệu Kinh Dịch cho
bản dịch tiếng Anh
Gieo 3 đồng tiền, ông được quẻ Khảm ䷜ với
hào 3 động, do đó biến thành quẻ Tỉnh ䷯
.
䷜ ䷯
quẻ Khảm ---> quẻ Tỉnh
Thoán từ quẻ Khảm bảo: Hai lớp Khảm (tức hai lần hiểm) nhưng
có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, cứ tiến đi (hành động) thì được trọng
và có công.
Thoán từ quẻ Tỉnh bảo: Giếng đổi ấp chứ không đổi giếng, nước
giếng không kiệt mà cũng không thêm, người qua người lại để múc nước giếng. Gần
đến nơi (đến giếng) chưa kịp thòng cái gàu xuống mà bể cái bình đựng nước thì xấu.
Cứ theo Thoán từ 2 quẻ đó thì ông nên có đức tin, cứ tiến đi
sẽ giúp ích được cho mọi người, như nước giếng. Còn lời khuyên thận trọng đừng
để bể cái bình đựng nước thì có vẻ không liên quan gì đến điều ông hỏi cả, có
thể bỏ.
Hào từ của hào 3 quẻ Khảm nói hào nầy âm nhu, bất trung, bất
chính, ở trên quẻ nội Khảm, tiến lên thì gặp ngoại Khảm, toàn là hiểm cả, cho
nên xấu.
Tuy nhiên đó chỉ là mới khởi đầu, chưa biến. Khi biến thành
hào 3 quẻ Tỉnh thì hóa tốt, vì Hào từ bảo: Hào này là người có tài, ví như cái
giếng nước trong mà không ai múc.
Nếu được dùng thì sẽ
giúp cho mọi người được nhờ. Vậy là công việc làm sẽ có ích. Cái ý hiểm trong
hào 3 quẻ Khảm (quẻ chủ) không liên quan
gì đến việc viết Giới thiệu , có thể bỏ.
Nhưng Jung cơ hồ không theo sát ý nghĩa hào 3 khi chưa biến
và khi đã biến, chỉ dùng cái ý hào 3 quẻ Tỉnh rồi kết hợp với ý hào 1 cũng quẻ
đó là cái giếng cũ, bùn lầy, không ai dùng nữa và đóan rằng nên viết lời Giới
thiệu, vì Kinh Dịch “như một cái giếng cổ, bùn lầy lấp cả rồi, nhưng có thể sửa
sang mà dùng lại được”. đòan như vậy không thật đúng phép (vì hào 1 quẻ Tỉnh,
không phải là hào chủ, đáng lẽ không được dùng để đóan) nhưng có thể tạm chấp
nhận được vì vẫn là dùng lời trong quẻ Tỉnh,
không lạc đề hẳn.
2. Tấn Thành Công trở về nước:
Sách Quốc ngữ kể : Tấn Thành Công lưu vong ở Chu. Khi Thành
Công trở về Tấn, một người nước Tấn bói xem lành dữ ra sao ? Bói được của Càn
(quẻ chủ) ䷀ với hào 1, 2, 3 động, do đó
biến thành quẻ Bĩ ䷋
Xem xong kết luận là việc Thành Công về Tấn bất thành.
Quả nhiên là thế. Lập luận như sau :
Càn là trời, là quân (vua), phối với trời là tốt. Nhưng quẻ
dưới của Càn biến thành Khôn (là đất, là thần), tức là quân biến thành thần,
nên không có kết quả. Quẻ lại có 3 lần biến, nên vua phải 3 lần ra khỏi nước. Lại
thêm, Thoán từ: bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai., nên
kết luận là không tốt, bất thành.
3.Trùng Nhĩ về nước :
Sách Quốc ngữ viết : Trùng Nhĩ (sau này là Tấn Văn Công) muốn về nước làm
vua, bói được quẻ Dự: ䷏ với
hào 1, 4, 5 động do đó biến thành quẻ Truân ䷂
Đưa cho thầy bói xem và Tư Không Qu. xem.
Thầy bói cho rằng : Quẻ Truân dưới là Chấn (xe),trên là Khảm
(nước, đường bị nứt); tức xe không đi được (Như đã nói, xét Quẻ từ dưới lên
trên), là bế tắc không thông, việc không
thành. Tư Không Qu. dựa vào Thoán từ của quẻ Truân là: nguyên, hanh, lợi, trinh, vật dụng, lợi du
vãng, lợi kiến hầu. Thoán từ quẻ Dự lại
viết : Lợi kiến hầu hành sư. Rồi kết luận lợi kiến hầu là được việc nước,
Trùng Nhĩ nên về nước. Trùng Nhĩ
về nước, làm vua Tấn (và sau này là Bá)
***
Trước khi kết thúc, xin các bạn nhớ lại, sau khi lập được quẻ,
ta đối chiếu với Kinh Dịch để tìm ra quẻ tương ứng. Căn cứ
vào lời lẽ của quẻ trong Kinh (Thoán
từ, Hào từ và Thập truyện) ta có
thể xác định được cát hung họa phúc, đồng thời tìm ra biện pháp đối ứng.Nhớ là
phải giải đoán từ dưới lên trên, từ Nội Quái lên Ngoại quái!
Đến đây, xin tạm kết thúc những gì tôi đã biết trong quá
trình học hỏi, mong các bạn tìm được một vài điều hữu ích. Tạm biệt các bạn!
Nguyên Lạc
________
Tham Khảo: Nguyễn Hiến
Lê, Ngô Tất Tố, Wu Wei, Richard Wilhelm, Kiều Xuân Dũng, Đông A Sáng, Internet,
Facebook...
***
@. PHỤ CHÚ
Phương pháp tiến hành
lập quẻ Dịch bằng thẻ tre (Có tham khảo và bổ túc từ Đông A Sáng)
1. Vật dụng và nghi thức
a. Các loại thẻ :
-- Dùng 50 cọng cỏ thi (hoặc 50 thẻ tre) dài 25 - 30 cm như
đã nói trên, hợp thành một bó, dùng để bói.
-- Dùng 6 thẻ tre dẹp nữa, mỗi thẻ dài 3 - 4 inch (8 - 10 cm) x ngang 1/2 inch
(1,5 cm) tượng trưng 6 hào ( để lập quẻ): trên
1 mặt vẽ nét đứt(- -) tượng trưng âm, màu đen; mặt đối vẽ nét liền (__),
tượng trưng dương, màu đỏ.
-- Dùng 2 đồng tiền để gieo sấp ngữa
b. Những vật dùng để đựng các loại thẻ và cách bài trí :
-- Ống tre hoặc cái
tráp, hộp
Dùng cái ống tre hoặc cái tráp (gọi độc), đường kính khoảng
8cm, có nắp đậy, để đựng 50 thẻ.Trước khi bỏ thẻ tre vào ống hoặc tráp thì bọc
bên ngoài bằng một tấm lụa điều (tỏ ý tôn trọng), rồi bỏ vào trong một túi lụa
màu đen, rồi mới bỏ vào trong ống tre (tráp) và đậy lại.
-- Bình gốm (hoặc đồng) :
Dùng cái bình bằng gốm để đựng 6 thẻ tre (tượng trưng 6
hào).
c. Cách bài trí :
Người ta để ống tre (tráp,hộp) sau án thư. Trước cái tráp để 2 đồng tiền (dùng đoán sấp ngữa), trước 2 đồng tiền là bình gốm (hoặc đồng) đựng 6 thẻ,
trước bình gốm là lư hương.
d. Các nghi thức :
Thanh tẩy, nghi thức này được tiến hành vào buổi sáng, trước
khi điểm tâm; là để bụng trống, tắm rửa sạch sẽ. Thanh tẩy xong, thì thắp
hương, thắp đèn (nến). Bày trên hương án 6 thẻ tre tượng trưng (6 hào) thành quẻ
Địa Thiên Thái:
Thắp hương xong, quỳ gối trên tấm nệm, đọc lời khấn: Thiên địa
vô ngôn, tôi tin rằng Trời
Đất cảm nhận được tâm thành mà soi sáng cho tôi được rõ nẽo
cát hung (tốt, xấu).
Khấn xong, thả hai đồng tiền tròn xuống đất:
-- Nếu một sấp, một ngữa thì có thể tiến hành dự đoán.
-- Nếu cả hai đều ngữa
hoặc đều sấp là chưa được, phải ngồi định tĩnh lần nữa, sau đó lại thả tiếp hai
đồng tiền. Nếu vẫn sấp cả hoặc ngữa cả,
thì kết thúc nghi thức, không dự đoán. Phải chờ đến lúc khác.
Tất cả nghi thức trên, vùa bày tỏ sự thành tâm, vừa thể hiện
sự tập trung tính thần vào việc dự đoán.
2. Phương pháp tiến hành lập quẻ
a. Lập nội quái :
1- rút 1 cọng thẻ trẻ
trong bó (50 chiếc) bỏ trở lại vào bình gốm ; biểu thị từ Vô cực chuyển thành
Thái cực; thẻ tre tượng trưng Thái cực.
Trong quá trình dự đoán, người ta không đụng đến thẻ tre tượng
trưng Thái cực.
2- chia số thẻ còn lại
(49 thẻ) thành hai nhóm ngẫu nhiên.
Nhóm tay trái để sang bên trái bình gốm. Nhóm tay phải đển
bên phải bình gốm. Hai nhóm thẻ biểu thị
Lưỡng nghi (Thái cực sinh Lưỡng nghi).
3- lấy 1 thẻ tre ở
nhóm thẻ tre bên phải, kẹp vào giữa ngón tay út và áp út (đeo nhẫn) của tay
trái.
4- rút nhóm thẻ bên
phải mỗi lần 2 thẻ, tượng trưng âm – dương. Tiếp tục 4 như lần thế, tượng trưng
Tứ tượng. Tổng cộng số thẻ đã rút là 8 thẻ, tượng trưng Bát quái.
5- tiếp tục rút thẻ
như trên. Cho đến khi nhóm thẻ bên phải chỉ còn từ 0 - 7 thẻ
(tức là không đủ tụ để
rút).
Thí dụ : còn 2 thẻ.
6- lấy 1 thẻ kẹp ở
ngón tay út và áp út tay trái, bỏ vào nhóm thẻ bên phải còn lại (2 thẻ); ta được
tổng cộng là 3 thẻ.
7- đối chiếu số thẻ với
số của Bát quái, ta tìm ra quẻ, hình quẻ, để lập thành nội quái (hạ quái).
Thí dụ : Đối chiếu, thấy số 3 là quẻ Ly.
8- đổi nội quái (Càn)
quẻ Địa Thiên Thái (đã xếp trên) thành
quẻ Ly vừa chiêm được.
Quẻ Địa Thiên Thái
thành quẻ Địa Hỏa Minh.
䷊ ䷣
Địa Thiên
Thái ----> Địa Hỏa Minh Di
b. Lập ngoại quái :
Lấy 49 thẻ gộp lại thành một bó, chia bó này ra làm hai tụ một
cách ngẫu nhiên, một tụ để bên phải, một tụ để bên trái bình gốm. Nhưng lần này lấy nhóm thẻ ở bên trái
bình gốm.
Mọi thao tác tương tự như
đã làm với nhóm thẻ bên phải: Nhón 1 thẻ kẹp vào ngón tay út và áp út.
Tiến hành rút 4 lần mỗi lần 2 thẻ. Số thẻ còn lại từ 0 – 7 thẻ. Cộng với 1 thẻ
kẹp ở ngón tay. Tìm được tổng số. Đối chiếu với số Bát quái. Ta có ngoại quái.
Ví dụ : Còn lại 6 + 1 = 7
Đối chiếu với số Bát quái 7 là Cấn. Thay Cấn vào 3 hào (được
lập bởi 6 thẻ dẹp) còn lại (ngoại
quái Khôn quẻ Địa Hỏa Minh) ta có quẻ :
Sơn Hỏa Bí ䷕
c. Tìm hào động :
Lấy 49 thẻ gộp lại thành một bó, chia bó này ra làm hai tụ một
cách ngẫu nhiên, một tụ để bên phải, một tụ để bên trái bình gốm.
Lấy 1 thẻ tụ thẻ bên
phải, kẹp bên ngón tay áp út và ngón tay út của bàn tay trái .
Rút thẻ trên tụ phải, mỗi lần 2 thẻ (âm – dương), chia thành
mỗi nhóm 6 thẻ (tượng trưng 6 hào). Khi trên tụ phải số thẻ còn lại nhỏ hơn 5,lấy
số thẻ đó cộng với thẻ đang kẹp ở tay trái,
tổng số chính là hào động.
Số 1 là hào 1 động, số 2 là hào 2 động, số 3 là hào 3 động,
số 4 là hào 4 động, số 5 là hào 5 động, số 6 là hào 6 động.
Thí dụ : Sau khi rút còn 4 thẻ + 1 thẻ bên tay trái = 5 là
hào 5 động
Nếu hào động là dương thì đổi dương thành âm, nếu hào âm động
thì đổi âm thành dương.
Thí dụ :
Từ quẻ Sơn Hỏa Bí trên (quẻ chủ), hào 5 (âm) là hào động, đổi
âm thành dương:
Sơn Hỏa Bí ䷕ thành
quẻ biến Phong Hỏa Gia Nhân ䷤
Ta có hai quẻ trùng quái, quẻ đầu là quẻ chủ (xem sự việc), quẻ sau là quẻ biến (kết
quả của sự việc
Quẻ thể và quẻ dụng :
Hào động có tác dụng giúp cho người ta tìm ra quẻ biến, để
biết sự biến hóa từ tốt sang xấu hoặc từ tốt sang xấu của sự việc cần đoán. Lại
nữa, nó còn quan trọng là phân biệt được quẻ thể và quẻ dụng trong quẻ biến. Thể
là bản thân người luận đoán, dụng là công việc cần đoán.
Theo ví dụ vừa nêu trên, hào 5 là hào động, vậy quẻ Cấn ở
trên (thượng quái) là quẻ thể; quẻ Ly ở dưới (hạ quái) là quẻ dụng của quẻ biến Phong Hỏa Gia Nhân.
Người ta phối ngũ hành vào quẻ để biết sinh hay khắc của quẻ dụng đối với quẻ thể.
Có những trường hợp xảy ra:
1- quẻ thể khắc quẻ dụng là tốt (cát).
2- quẻ dụng khắc quẻ thể là xấu (hung).
3- thể và dụng ngang nhau (tức yếu tố ngũ hành giống nhau,
thì thuận lợi.
4- thể sinh dụng thì
bị hao tổn.
5- dụng sinh thể thì
có tin vui.
6- quẻ dụng trước tốt,
sau khi biến thành xấu, là việc trước tốt sau xấu.
7- quẻ dụng trước xấu,
sau khi biến thành tốt, là việc trước xấu sau tốt.
8- quẻ bị khắc chỗ
này nhưng có chỗ khác sinh, biểu thị có sự cứu giúp.
9- quẻ có chỗ bị khắc
nhưng không có chỗ khác sinh (vô sinh), thì không có trợ giúp.
(còn tiếp bài BẤM ĐỘN)