Võ Văn Hoa phiêu bồng
với cỏ phiêu bồng
Phạm Xuân Dũng
“Cỏ phiêu bồng”* là tập thơ thứ tư của nhà thơ Võ Văn Hoa. Kể
từ thuở hoa niên tập tành cầm bút đến nay cũng đã gần nửa thế kỷ gắn bó với thi
ca. Mặc dù nghệ thuật không cứ phải câu thúc chuyện thâm niên dài ngắn, song để
đi hết con đường đã chọn cũng phải là người tình chung thủy với Nàng Thơ. Vì phải
là người vượt qua được những eo sèo cơm áo, những gập gềnh nhân sinh và cả những
nổi chìm thế sự mới có thể thăng hoa, chưa kể phải vượt qua chính bản thân
mình; một cửa ải xưa nay luôn thử thách các anh hùng và thi nhân. Thân tâm
không nhẹ thì luận chi được chuyện phiêu bồng.
Tôi có cơ duyên dõi theo đường thơ thi sĩ Võ Văn Hoa nên
cũng lấy làm vui mừng khi thức nhận thêm một điều rằng đây là tập thơ vừa khả
thủ lại vừa khả biến. Bên cạnh diện mạo thi nhân đa cảm, nặng lòng với quê nhà
và tha nhân là những tìm tòi mới về thi pháp thể hiện, đặc biệt là sự tiết chế
cần thiết để đạt đến sự hàm ngôn, ý tại ngôn ngoại và thay đổi cấu trúc thơ
quen thuộc nhằm hướng tới những bứt phá ấn tượng. Thơ anh, vì vậy từ hướng ngoại
và đối thoại là ưu thế đã có thêm xu thế hướng nội và nhiều khi như là độc thoại,
khiến cái tôi trữ tình của thi nhân thêm phong phú, nhiều cung bậc và góc cạnh.
Để đạt được điều này trong thơ tất nhiên không dễ, nhất là với một người quảng
giao và trải rộng lòng mình yêu mến nhân gian như Võ Văn Hoa. Nghĩa là cần phải
có thêm người thơ thứ hai ngay trong anh, biết cách phân thân giữa cõi hồng trần.
Có một Võ Văn Hoa luôn thương nguồn nhớ cội. Bạn đọc nhớ tới anh như nhớ về những bức tranh quê quen thuộc hiện lên trong thơ và ám ảnh lâu nay về một người-thơ-tự-tình-thôn-dã: “Còn ngôi đình chứng tích với thời gian/Cây sanh cổ kể bao điều kỳ tích/ Người ở dưới noốc lên/Người từ miền trên lại/Chợ gạo cá, bốn mùa hoa trái/Cứ vây quanh khu chợ thập thành”.
Tác giả tự hóa thân mình thành chợ, đây là mô tipthường thấy
trong folklore (văn hóa dân gian), nhất là truyện cổ tích được nhà thơ vận dụng
khá nhuần nhuyễn trong sáng tác thi ca và đem lại những hiệu ứng mỹ cảm thuận
chiều. “Tôi như người cổ sơ/Đi chân đất đầu trần qua chợ/Thấy tráng sĩ dừng ngựa/Thấy
nho sinh ghé trạm dừng chân/Cho hành trình vượt cây đa vào kinh ứng thí”.
Khi thực tại kéo người thơ từ hoài niệm trở về thì cũng là
lúc thơ bật mầm xanh nuối tiếc: “Chợ Diên Sanh hôm nay/Người qua chợ có vô tình
như thể/Tôi xót đắng-cây Sanh chiều tuổi xế/Như lãng quên năm tháng ở quanh
mình”.
Đồng dạng trong cung bậc cảm xúc và bút pháp thể hiện với
bài thơ này là những thi phẩm như: “Đầm Chuồn”, “Phố giờ xanh trở lại” hoặc đắm
đuối quê nhà nhưng cách lập ngôn đã có phần lạ hơn như trong “Bức tranh
gà”...Nhưng tập thơ này không chỉ là ngần ấy, dù rằng như vậy cũng đủ làm nên một
Võ Văn Hoa thi sĩ. Đã có sự chuyển động muốn vượt thoát ra khỏi cám dỗ của thói
quen dịu ngọt để từng bước tự làm mới mình. Hình như cảm quan nghệ thuật này đã
vận vào ngay từ tên bài thơ như “Tầm nhìn” chẳng hạn. Những con số thi ca hiện
lên trong sáng tác mang bóng dáng của phép đếm khải huyền, truyền đi những tín
hiệu/ chỉ dấu tâm linh: “54 dân tộc/63 tỉnh thành/Đền Hạ lên Đền Trung/18 đời
Vua Hùng/Những con số 9 biết nói/ Những con số thăng hoa”...
Những thi phẩm ngắn trong đó có thơ bốn câu của Võ Văn Hoa
trong tập thơ này cũng có nét duyên thơ riêng có khi như ký họa thơ xinh xắn,
có khi như thể phút chốc chợt nghĩ qua đường nhưng không trôi tuột qua trong cảm
xúc người đọc. Một tứ tuyệt dung dị mang tên chữ của tập thơ “Như phiêu bồng thảo”,
tên một loài cỏ thi vị: “Chẳng cần kích hoạt thơ bật tứ/ Vành đai châu thổ biếc
lên ngôi/Ta cứ thâm canh đồng ruộng chữ/Như phiêu bồng thảo lặng lờ trôi”.
Hay có khi cũng ý tứ lục bát nền nã nhưng đột nhiên lại phá
cách khi biến thể sáu/tám trong câu đầu và câu cuối cũng là một điểm nhấn mà
người viết dành cho người đọc một bất ngờ thú vị: “Dừng lâu trong rừng khộp
già/Nhìn cây hóa thạch nhìn ta hóa người/Nhìn hóa công nói bao lời/Oằn mình cây
Mường Phìn ơi... Mường Phìn!”.
Cũng viết về dấu xưa hoài niệm khi nhớ về vương quốc Chăm Pa
nhưng “Dấu Tháp” là một cách thể nghiệm mới. Bài thơ kiệm ngôn, chưa đến bốn
mươi chữ. Bố cục chặt, câu ngắn và rất ngắn dồn nén hình ảnh và cảm xúc , cách
xuống hàng đầy dụng ý gây ấn tượng đã làm cho bài thơ có dáng vẻ riêng, đập mạnh
vào tri giác, tạo nên một mỹ cảm mới, một trường liên tưởng lạ trong thi pháp
biểu hiện, cả sự sắp đặt của nghệ thuật thị giác khi trình bày bài thơ trên mặt
giấy, cộng hưởng cảm thụ giữa tai và mắt. Theo tôi, đây là bài thơ thành công
thể hiện bút lực và nỗ lực làm mới mình của thi sĩ Võ Văn Hoa.
Còn lại huyền tích
Tháp Po Klong Garai
Tháp lửa!
Đồi Trầu...
Người canh cửa
Về đâu?
Tôi chìm trong màn sương vỏ đục
Dấu tháp đến lạ kỳ
Người đời sau
Shihavanman
Huyền Trân
Mưa
Nghiêng
Tháp cổ...
Người thơ thì có đứng lâu một chỗ, thậm chí hóa thạch nhưng
còn thơ phải luôn vận động, phải cựa quậy, sinh sắc và tiến về phía trước.
Không phải theo kiểu cơ học mà theo hành trình riêng biệt và sinh động của thi
ca. Nhà thơ Võ Văn Hoa đã không dừng lại mà vẫn tiếp tục đi, vẫn đồng hành cùng
Nàng Thơ có lẽ cho đến lúc da mồi tóc bạc. Một sóng đôi như thế thì thơ luôn trẻ
lại và tươi mới. Và người thơ đôi lúc có thể như một lão ngoan đồng gần gụi mà
hấp dẫn. Nếu không thế thì làm sao có thể thăng hoa Võ Văn Hoa, phiêu bồng theo
cỏ phiêu bồng kia chứ!
PXD
*Tập thơ “Cỏ phiêu bồng” của Võ Văn Hoa, NXB Hội Nhà văn,
2020