Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, March 9, 2017

NGỒI RU VÕNG TÌNH - Bình thơ của Nguyễn Hùng Dũng





NGỒI RU VÕNG TÌNH 

Thôi ta phiền muộn lắm rồi
Đừng lay ta dậy mộng đầu xa xôi
Đừng môi đừng mắt gọi mời
Vòng tay ngày đó rã rời nỗi đau

Bèo mây gặp gỡ đời nhau
Gió lên con nước trôi mau cuối trời
Tình vui phút chốc tình rờI
Ngở ngàng bao nỗi cuộc cờ thế gian

Ta về xếp lại ngổn ngang
Tạ ơn ai dẫu còn mang mối sầu
Ta ngồi lặng giữa đêm thâu
Trời không tháng bảy mưa ngâu sụt sùi

Tạ ơn ai lần nữa thôi
Thiên thu giọt lệ đắng môi giả từ
Bóng ta lẫn bóng sương mù
Cánh hoa nở muộn ngồi ru võng tình …

                                       Lara Ngo




           Nguyễn Hùng Dũng


BÌNH THƠ CỦA NGUYỄN HÙNG DŨNG

Lara Ngo
Tên thật: Ngô Ái Loan
Bút hiệu: Mầu Hoa Khế
Định cư: Hoa Kỳ
Nguyến quán: Làng Đại Hào, Triệu Đại, Triệu Phong, Quảng Trị

Tình cờ tôi được vinh hạnh làm quen với Lara Ngô, mối vinh hạnh này, nhờ vào một người bạn năm ni đã bát tuần, cựu học sinh trường Providence Huế, đã phổ nhạc bài thơ Ngồi Ru Võng Tình của Lara Ngo. Trong một buổi gặp mặt của các đồng môn Providence tại lữ quán 13, ven sông Saigon, vào mùa xuân Đinh Dậu 2017, sau khi làm đúp 2 ly whisky, nghệ sĩ kèn clarinet, cao hứng khe khẻ hát bài Ngồi Ru Võng Tình do chính anh sáng tác…Tôi nghe mà ngẫm nghĩ thưởng thức từng ca từ, từng câu nhạc, mà xúc cảm lâng lâng đến thế. Sau đó, anh Đặng Nho mới hé bí mật cho tôi biết rằng tác giả bài thơ đó là Lara Ngo.
Và theo dòng thời gian trên Face book, chúng tôi đã kết bạn với nhau, tôi không ngờ ngoài thi phẩm Ngồi Ru Võng Tình, Lara Ngo còn rất nhiều sáng tác thi ca khác, trên cả 100 bài thơ xuất hiện lần lượt...và thậm chí còn biết thêm Lara là nhà viết kịch, viết truyện ngắn trữ tình lãng mạn...
Khi nói đến những nhà thơ nữ người Việt ở nước ngoài, tôi được biết nhà thơ Huệ Thu, người Dalat, nhưng gốc Huế đã từng lay động bao tâm hồn yêu thơ, nếu như thơ Huệ Thu giản dị, chân thành như một đóa dã quỳ Dalat... nhưng vẫn sâu lắng, hùng vĩ... tuy giữa dâu bể đời thường nhưng phảng phất hồn tráng sĩ lồng lộng; thơ Huệ Thu đọc hoài không chán vì Hụệ Thu làm thơ giữa mộng và thực, phảng phất hương thầm của dĩ vãng nhưng không quên hiện tại, trong thơ Huệ Thu có hơi hướm đường thi, vì Huệ Thu am tường và say mê Lý Bạch, Thôi Hiệu, Trương Kế... Dù thơ Huệ Thu bảng lảng một làn sương khói quê hương dù quan san ngàn dặm... nhưng không làm người đọc yếm thế... mà như cùng nhắc nhau hoài niệm về một đường xưa để cùng nhau đi tới chân thiện mỹ nơi cõi thiền định. Hãy xem một khổ thơ ngẫu nhiên của Huệ Thu, trích trong bài "Nơi Về Phương Đông"và Bài ca tiễn người"

"Ở đó bình minh giống ngọn cờ
Trải dài Hy Mã tuyết như mơ
Quê hương không thấy còn biên giới
Chỉ có lòng vui, ta với thơ!

Ở đó không còn câu hỏi nữa
Hoàng hôn đã hóa lá cây rừng
Màn vương khép chặt đời băng giá
Ta ngắm hình ta, thấy dửng dưng !..."
(Trích trong Nơi về phương Đông)

"Uống chén rượu hoàng hoa không dễ kiếm, 
Ðọc bài thơ Hoàng Hạc líu lo cười. 
Muốn cùng em đi dạo khắp muôn nơi, 
Vào thiền viện nghe hồi chuông đổ muộn. 

Nghe sương sớm trên cành cây gió cuốn, 
Chợt nhớ ra: mình đang ở Trung Hoa. 
Sao văn chương toàn những chữ thiết tha, 
Mà thù hận vẫn đầy trong sử sách ? "
(Trích trong Bài ca tiễn người)

Xin mời vào trang Sài Môn thi đàn để thưởng thức thơ nữ sĩ Huệ Thu.
Nay tôi lại tình cờ  được làm quen với  một nữ thi nhân khác: Lara Ngo, nguyên quán làng Đại Hào, Triệu Đại, Triệu Phong, Quảng Trị. Thơ của Lara Ngo hoàn toàn khác hẳn của Huệ Thu, không mãnh liệt, không bi tráng, không tràng thiên dữ dội... Nhưng ẩn chứa những đợt sóng ngầm nội tâm nhẹ nhàng mà sâu lắng, êm ả mà ray rứt, lặng lẽ mà lay động...

Thôi ta phiền muộn lắm rồi
Đừng lay ta dậy mộng đầu xa xôi
Đừng môi đừng mắt gọi mời
Vòng tay ngày đó rã rời nỗi đau

Dường như trong khổ thơ đầu tiên, Lara Ngo đã giải thích bút danh Lara của mình, nàng y tá Lara, người tình của bác sĩ Zhivago, mà những ai thuộc thế hệ đi trước, đều biết rõ chuyện tình lãng mạn này qua bộ phim kinh điển: Bác sĩ Zhivago là một phim của Anh được sản xuất năm 1965 do David Lean đạo diễn và hai đại minh tinh màn bạc Omar Sharif và Julie Christie, dựa theo truyện nổi tiếng cùng tên của nhà văn Nga Boris Pasternak. Cuốn tiểu thuyết đã được Hàn lâm viện Thụy Điển trao giải Nobel về văn học năm 1958. Nói về một mối tình của một bác sĩ đã vợ con, với hồn thơ lai láng, và một cô y tá xinh đẹp lãng mạn mà ông gặp gỡ như một định mệnh oái oăm với những giằng co éo le tình cảm, phim trình bày theo lối kể chuyện xen kẽ nhau hai cảnh đời của Yuri và Lara cho đến khi hai người yêu nhau và xa nhau mãi mãi... Cái kết cục của câu chuyện tình tuy không có hậu, nhưng vẫn được mọi người ái mộ... vì một lẽ thường tình, khán giả vô hình chung như thấy được bi kịch của tình yêu tuyệt vọng này ở đâu đó trong một phần của đời mình...
Dường như Ngô Ái Loan đã mặc định ghép cái tên Lara vào để an định cho số phận tiên thiên của mình, tôi chỉ đoán mờ đoán mịt vậy thôi, ắt cũng vì nội dung của hầu hết các tập thơ của Lara Ngo đều muốn nói như vậy.
Những người yêu nhau không sống được cùng nhau, dẫu biết rằng mong manh vẫn thường hẹn kiếp sau. Nàng y tá Lara và Bác sĩ Zhivago là những người tình lạc nhau từ kiếp trước, tìm thấy nhau trong kiếp này và rồi phải khóc trong thinh lặng vì xa nhau. Đọc Bác sĩ Zhivago lại càng thêm tin rằng hãy yêu nhau hơn nếu có thể. Đừng hò hẹn lần lữa, đừng chờ, đừng lay, đừng môi, đừng mắt... Lara Ngo đã dụng từ đơn như môi, như mắt... mà bao hàm nghĩa kép, làm cho người đọc hiểu ngay ý của mình, có phải các bậc túc nho cho rằng đó là "Ý tại ngôn ngoại"

Bèo mây gặp gỡ đời nhau
Gió lên con nước trôi mau cuối trời
Tình vui phút chốc tình rời
Ngở ngàng bao nỗi cuộc cờ thế gian

Nếu như Lara Ngo gieo từ mây đi trước bèo e nghe hợp lý hơn vì mây ở trên cao, cũng như gió cũng ở trên cao, mà bèo và con nước ở phía dưới, nhưng thôi, ở đây dụng ý bèo mây... là tan là hợp, hợp rồi tan như con nước trôi mau cuối trời, không thể nào quay lại chốn cũ nữa rồi, cuộc tình đó cũng đành phải theo quy luật đó, nhưng độc giả sẽ thắc mắc rằng chỉ là quy luật của phạm trù tự nhiên, hà cớ gì mà phải áp dụng cho con người, hãy hỏi ngay chính Lara Ngo, vì không ai hiểu được, ngộ được bằng Lara Ngo, tôi xin trả lời, e suốt kiếp này Lara Ngo sẽ không bao giờ trả lời... mà chôn chặt cho tới khi xuống tuyền đài?

Ta về xếp lại ngổn ngang
Tạ ơn ai dẫu còn mang mối sầu
Ta ngồi lặng giữa đêm thâu
Trời không tháng bảy mưa ngâu sụt sùi

Theo thiển ý của người bình, đây chính là tứ thơ hay nhất, đỉnh nhất của Ngồi Ru Võng Tình, thôi thì sau những ngang trái, dang dở, sau những cuộc cờ... nào rối nào rắm, nào ưu, nào sầu... nhưng ai ai cũng cần phải sống như nàng y tá xinh đẹp huyền thoại Lara cũng phải đi tiếp cho tới cuối chân trời. Nên phải xếp lại ngổn ngang, xếp lại mớ bòng bong như một nồi canh hẹ... Nhưng không phải bằng một thứ hận tình, hận người... mà bằng tấm chân tình tạ ơn người đó... dù đã vô tình hay hữu ý đem đến một mối sầu khôn tả... để rồi người trong cuộc phải ngậm ngùi, phải sụt sùi trong khuya, trong cô đơn và cả tĩnh lặng.

Tạ ơn ai lần nữa thôi
Thiên thu giọt lệ đắng môi giả từ
Bóng ta lẫn bóng sương mù
Cánh hoa nở muộn ngồi ru võng tình…

Vậy là hết rồi, không còn chi níu kéo lại rồi... kiếp này hay thiên thu đều đưa ta trở về hiện tại, gác hết mọi ưu, mọi phiền, mọi môi, mọi mắt... và chỉ còn trong tâm tưởng, trong ký ức, để ta ngồi giữa thế gian này, giữa cõi ta bà này, còn lại một mình ta và chỉ một mình ta thôi...để miên man, để bâng khuâng nhớ lại những ngày đã qua.
Trở lại chuyện tình bác sĩ Zhivago: Nỗi nhớ mong chính là cây thập giá đè nặng trên vai Zhivago. Chín năm sau, anh ngã vật xuống mặt đường lát đá và chết trong nỗi hoài nhớ Lara đến tuyệt vọng. Nhiều năm sau Lara biệt tích và chết trong một trung tâm lao động trong thời gian bị lưu đày. Zhivago chết vì con người ta không thể sống như một con lắc với hai điểm nhớ mong tận cùng tuyệt vọng; Lara chết trong cô đơn, không có người đàn ông nào của nàng bên cạnh. Không ai ân hận, không ai trách cứ gì nhau, và dường như người đọc cũng tin rằng không có gì đổ vỡ. Tất cả chỉ là sự tình cờ của số phận và cuộc đời thỉnh thoảng vẫn cay nghiệt thế. Ta biết để có thể bao dung hơn, vậy thôi.
Cám ơn Lara Ngo không vì những vần thơ hay, du dương, êm dịu... mà là  những vần thơ có linh hồn, có nội tâm... và dù có phải rằng Lara Ngo có mang một số phận hy hữu như nàng y tá Lara xinh đẹp, với cuộc đời đầy nghiệt ngã, bi lụy tận cùng... hay không? Nhưng Lara Ngo vẫn "Xếp lại ngổn ngang" để lại cho đời những tứ thơ đẹp, cảm xúc và đời thực...Ví như một ngôi sao mờ nhạt, xa xôi, đơn độc trên vòm thiên hà rộng lớn, bao la... Nhưng đã thành vì sao lung linh, rực rỡ trên thi đàn của hôm nay và của ngàn sau.
Chỉ là những lời tản mạn, cảm khái về một tứ thơ mới, chứ không hề dám bình  thơ trước mặt bàn dân thiên hạ, thôi thì xin được "Mua vui cũng được một vài trống canh"

                                 Bà Rịa Vũng Tàu ngày 9 tháng 3 năm 2017
                                                  Nguyễn Hùng Dũng
............

Mời các bạn hữu nghe bài Ngồi Ru Võng Tình qua tiếng hát của ca sĩ Diệu Hiền  

Xem thêm thơ của Lara Ngo

Những trích đoạn:

Màu nắng
Nhớ quá đi thôi một người đi
Thương màu áo trận buổi phân ly
Yêu đôi vai gánh đầy sương gió
Tung lướt trời mây chẳng hạn kỳ

Dòng thời gian
Ta sẽ nhủ thầm trong nước mắt 
Hãy ngủ đi ngày tháng sẽ phôi pha 
Nỗi muộn phiền trong bóng chiều hiu hắt
Bóng người xưa rồi cũng sẽ nhạt nhòa

Dấu yêu
Tóc em xanh như dòng Thạch Hãn
môi em cười nghiêng cả Cổ Thành xưa
em trong ta ngan ngát một mùa thơ
giấu nỗi buồn đằng sau đôi mắt biếc

Quay lưng
Người nói đi dẫu một lời giả dối
Ta lắng nghe như thể một tín đồ
Tim mù lòa buớc tình đi lạc lối
Bên người thôi ta mặc cả mơ hồ

Rồi bỗng dưng bão nổi lên cuồng nộ
Phút yêu thương như hơi thở quỳnh hương
Dang đôi cánh rũ dần trong đêm tối
Chỉ sớm mai thôi... mất dấu thiên đường !!!

Lệ nơi phi trường
bàn tay chừ chới với
tay ngày buồn trong tay
rã rời bàn tay vẫy 
thế giới sầu là đây

Nếu có được
Vàng tháng chín mầu tương tư rung tiếng
Gọi thầm thì cho cây lá xôn xao
Dấu tình xưa năm tháng vẫy tay chào
Con phố nhỏ chưa qua mùa giông bão !

Chỉ là thế thôi
Cũng đã từng yêu từng khổ đau
Rã tan, tan rã chuyện ngày sau
Hạnh phúc hai từ như huyển mộng
Nước vẫn buồn trôi dưới chân cầu

Với nhau muộn màng
Đưa tay níu chút muộn màng
Ta e kinh động bàng hoàng cỏ cây
Ta e vần vũ trời mây 
Người ơi tình đã héo gầy trong tay 

Mai chị về
Mai chị về, cho em nhắn gửi
Mạch sầu đâu dễ gì khôn khuây
Đường về quê cũ chừ hiu quạnh
Mang nhớ nhung đầy mây trong mây

Quê hương nắng cháy khô đồng cạn
Sỏi đá quen chân những kiếp nghèo
Sông trở đêm sâu lời than vãn
Hóa tiếng ru buồn theo gió theo

Người em sầu mộng
Ngày xưa hai nhà mái lợp tranh 
Cách cây khế chín nặng trĩu cành 
Một dậu mồng tơi màu tim tím 
Đan nhẹ tơ vàng giăng mỏng manh 

Màu tháng giêng
Trên đôi má Ba hai dòng lệ chảy 
Bất hiếu bao năm lòng dạ héo gầy 
Một nén hương trầm hiển linh về thấy 
Triệu Phong, Đại Hào núm ruột là đây      

Saigon từ bước chân đi
Sài Gòn chừ quá xa xăm 
Trần Quang Diệu cũng biệt tăm lối về 
Nửa đời trắng xóa tóc thề 
Nửa đời khát vọng ê chề niềm đau 

Chiêm bao
Đêm qua tôi khóc nữa rồi
lệ tuôn chảy mãi trên môi mắt sầu
mình tôi đếm bước canh thâu
tóc mây chừ đã nhạt mầu yêu thương
kề vai nồng thuở yêu đương

Phụ Nhau
Hai bóng lưng ngược hướng đi 
Hai bàn tay đã thôi ghì lấy nhau
Hai đôi môi nhợt nhạt màu
Hai con mắt chung nỗi đau một đời

Kiếp nào có yêu nhau
Em ngu ngơ nên cứ mãi kiếm tìm
Gần hết cuộc đời mà lòng mãi kiên trinh
Gần hết cuộc đời với đau đớn riêng mình 
Tình yêu ấy... kiếp lai sinh hạnh ngộ...

READ MORE - NGỒI RU VÕNG TÌNH - Bình thơ của Nguyễn Hùng Dũng

ÂN TÌNH KHÓ PHAI - Lâm Bích Thủy

         

Tác giả Lâm Bích Thủy



ÂN TÌNH KHÓ PHAI
Lâm Bích Thủy sưu tầm, biên soạn, giới thiệu
Danh cầm Nguyễn Xuân Vinh (Bảy Thiều)

Trong một bức thư gửi cho ba tôi-nhà thơ Yến Lan, nhà thơ Quách Tấn chân tình khuyên anh em Văn nghệ tỉnh nhà: “Bình Định có rất nhiều nhân vật có danh mà gần một thế kỷ qua bị bỏ quên, lẽ ra chúng ta phải làm sống dậy. Rất tiếc không có người có đủ tài, học, tâm chí để cùng nhau khai thác kho tàn Văn hóa của Bình Định. Tôi nhận thấy phần đông anh em làm văn nghệ vì danh vì lợi hơn là vì bổn phận thiêng liêng, chú và anh em làm văn nghệ sỹ Bình Định đừng phụ lòng cổ nhân...

 Về vấn đề này cũng có người rất tâm huyết như Nhà văn Thu Hoài -Tổng biên tập Báo Văn nghệ Nghĩa Bình từng viết về cụ Đào Tấn-Sư Tổ môn hát bội ở Qui Nhơn; riêng  trường hợp về cổ nhạc Miền Trung, quê ở An Nhơn, ba tôi và ông Thu Hoài đã nhiều lần bàn để viết, song chưa thực hiện được, không hiểu vì lý do gì?!...

  Lúc còn tại thế, ba tôi hay nhắc đến một người tên là Bảy Thiều. Theo ông, vào những thập niên 40-50 của thế kỷ XX, người Bình Định thường tranh luận về ngón đàn tranh tài tình, làm lay động con tim bao người của danh tài Nguyễn Xuân Vinh (tức Bảy Thiều). Vậy mà hơn ½ thế kỷ qua không có ai nhắc đến!   

    Người ta bảo, mọi vật trên thế gian có duyên thì tụ lại. Vâng, có lẽ vậy; năm 2006, người con trai út của ông, nhạc sĩ La Nhiên (Nguyễn Liên) gọi điện đến nhà, tự giới thiệu là bạn vong niên của ba tôi. Đây là cách mà ba tôi đã gián tiếp kéo tôi đến quan hệ này chăng? Ba tôi từng dạy: “Sống ở đời hiểu hiện tại nhưng phải biết về quá khứ”. Thiết nghĩ, để tỏ lòng kính trọng dù muộn màn chúng ta cũng nên tìm hiểu về người nhạc sĩ tài danh này:

  Tôi đến thăm anh tại số nhà 315 -CC16/9 Trương Định, tìm hiểu về người đã làm cho ba tôi hao tâm bấy lâu. Thú vị và xúc động biết bao, nhà anh còn lưu nhiều tư liệu về mối thâm giao giữa ba tôi và ba anh. Anh tặng tôi những tư liệu quí đó.

     Khoảng năm 1934, vào dịp Tổng đốc tỉnh Bình Định tổ chức tiệc đãi ông Chánh sứ mãn hạn công vụ trở về Pháp. Tỉnh Trưởng yêu cầu “Ông Phòng thành” cho lính mời nhà danh cầm ở No. 92, Rue du Cửa Đông à Bình Định. Trát mời có nội dung “Tỉnh cần ông Xuân Vinh hầu đờn cho “dạ tiệc…” Chú lính mang Bản trát đến nhà với thái độ khiếm nhã. Đúng lúc có thi sĩ Xuân Khai (Yến Lan) đến thăm. Chứng kiến sự vô lễ của lính lệ đối với một người danh tiếng như Xuân Thiều; Xuân Khai bực lắm, nhìn thẳng vào mắt anh ta, hỏi “Chú có biết đây là ai không? Biết rồi sao chú mày vô lễ thế? Chú lính cúi đầu phân trần “Ông Phòng thành bảo tôi phải nói như vậy để người nhận “trát ” không dám bê trễ!...” Hôm đó, cụ Thiều nhã ý mời Xuân Khai cùng vào dinh.

  Sáng hôm sau, Xuân Khai đến thì vừa có chiếc xe kéo dừng trước nhà, một người đàn bà Pháp bệ vệ, sang trọng bước xuống, hỏi đích danh ông Bảy. Rồi, họ nhận ra là người quen từng tranh luận với nhau tại các Diễn đàn Văn nghệ ở Huế trước đây.

 Không biết khi còn sống; anh Nhiên và ba tôi thân thiết đến cỡ nào, song qua buổi tiếp xúc lần đầu, dù đã đi xa, nhưng tôi vẫn thấy bóng dáng cha mình trong anh. Anh nhắc về ông với một tình cảm trân trọng; sự ngưỡng mộ của anh đối với ông càng cũng cố cho tình cảm giữa ba con người - cha con anh và ba tôi bằng một ân tình khó phai. Đặc biệt những chuyện kể của anh về ông khiến tôi càng thấy tự hào. Anh không ngớt khen ngợi sự tinh tế của Yến Lan, hiền lành, nhưng cương trực, luôn bênh vực lẽ phải; và   ông đã cứu ba anh - một danh tài phẩm gía cao tránh được phiền toái vì một hành vi kém nhân cách do cậu ruột anh gây nên.

  Câu chuyện xảy ra ở thời gian anh và ông cậu học cùng với hoàng tử Shihanou tại trường Gaglin ở Nha Trang. Những tưởng cậu Nguyễn sĩ Quí là danh cầm Xuân Thiều, nên ngài thường biếu ông vài đồng Đông Dương để tiêu xài. Ông cậu cho thế là oai  mà không biết thằng cháu vô cùng xấu hổ thay cho cha. Xuân Khai tình cờ biết được. Thấy việc lạm dụng này sẽ hủy hoại thanh danh của ông bạn già đáng kính. Nhân được Xuân Thiều mời đi thăm con và viếng cảnh đẹp Miền Trung; Xuân Khai hân hạnh được trực kiến Shihanou. Lúc đến Đại Lãnh, bãi biển đẹp của Phú Yên, phút giao lưu với vị vua tương lai của Căm-pốt, Xuân Khai cố ý ca ngợi tài năng Xuân Thiều. Lúc đó, Shihanou mới hay, người bấy lâu ông tưởng là danh tài, chỉ là bạn học cùng lớp. Ngài tức vì bị lừa lâu như vậy, nhưng nể lời xin lỗi của Xuân Khai, Ngài bỏ qua, song từ đó shihanou không quan hệ với cậu của anh nữa. 
 
 Sau Cách mạng Tháng 8, một thời gian ngắn, người ta gọi Qui Nhơn là thành phố Tăng Bạt Hổ, còn huyện An Nhơn là Thống Can. Hồi ấy, người dân nơi đây, lần đầu tiên đã bầu Xuân Khai làm Chủ tịch Văn nghệ; nhưng ông từ chối vì thấy nhạc sĩ Xuân Thiều mới đủ khả năng, tài đức đảm đương việc này. Thái độ cư xử tinh tế và tế nhị đó khiến Xuân Thiều càng yêu quí và nể trọng chàng thi sĩ họ Lâm hơn...
 
  Sau lần đi thăm anh La Nhiên về, với tư liệu trong tay, tôi có thể tiếp tục việc bỏ dở của ba tôi và ông Thu Hoài. Tôi đã viết: “Nhớ tiếng đàn cậu Bảy Thiều”. Bài viết này sẽ giúp các bạn biết thêm về một danh tài về Đàn tranh của Trung Bộ mà bấy lâu bị lãng quên:

   Cách đây hơn hai mươi năm vào ngày 20-5-1988, cụ Tôn Thất Doãn–nhà sưu tầm tiểu sử các danh cầm nhạc Huế (Việt Kiều từ Bỉ, nay đã qua đời) gửi cho Ban Biên Tập Báo Long An một bức thư, trong đó có đoạn:
 “Điểm thắc mắc lớn nhất của tôi là tại sao đối với một “ngôi sao” rực rỡ như Bảy Thiều” mà chưa hề được một bài viết nào tương xứng trong giới sưu tầm nhạc cổ Trung phần Việt Nam (?!) Tôi hy vọng… nếu có thể được thì kính nhờ quí Báo chuyển dùm những lời hứa quan trọng sau đây đến các Bạn Văn Nghệ Nghĩa Bình: Chúng tôi xin cung cấp cho các bạn văn nghệ ấy một cuộn bande-Magnétophon có thu tiếng đàn tranh của Bảy Thiều tức Nguyễn Xuân Vinh. Chắc các bạn sẽ hài lòng vì chúng tôi sẽ xin phép Giới chức có thẩm quyền thuộc Nhà Bảo Tàng Phát Thanh và Truyền Hình Pháp để thu lại tiếng đàn mà các bạn đang cần làm “chứng liệu” hiện còn lưu giữ tại đây. Đó là một trong rất nhiều tư liệu hiện đang được bảo tàng qua kho tư liệu của đài Bá Âm – France-Asia. Đĩa nhạc thu tiếng đàn Bảy Thiều qua 2 bản - Tứ đại cảnh và Tứ đại oán hồn năm 1939 là loại đĩa nhựa 33,5 tours.

 - Xuân Thiều là người con thứ Bảy của ông Nguyễn Kỷ, sinh năm 1895 tại làng Mỹ Phú, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Cha ông làm quan hậu bổ (ngang quận trưởng) ở các tỉnh gần Cố Đô Huế. Ông nổi tiếng thanh liêm, hâm mộ nghệ thuật, ca nhạc. Mẹ là Phan thị Xuân. Tuy nhan sắc của bà không mặn mà nhưng rất giỏi các loại đàn. (Bà là chị ruột của quan Tuần vũ Đào Phan Duân, ở làng Biểu Chánh, huyện Tuy Phước. Ông bị buộc về hưu sớm vì dám chống Tây.) Bà là cháu ngoại của Phan Thị Y–người hầu thân tín nhất của hàng quí phi Từ Dũ. Bà Y là người phụ nữ độc nhất được cung đình chọn để đào tạo phục vụ lâu dài cho cung đình. Qua đó, tài năng của cậu Bảy có được là chịu ảnh hưởng từ bà ngoại và mẹ ông mà ta gọi là “con nhà nòi”

  Đây nữa, hai người anh của ông đều là những danh cầm nổi tiếng. Anh thứ Năm Nguyễn Phan Tần, sống bên ngoại ở Vĩnh Long. Ông chuyên viết, soạn sách giáo khoa. Ngoài ra ông còn nổi tiếng là nhạc sĩ đàn tay trái. Ông có công đưa các câu ca dao trữ tình vào các điệu lý của miền Tây Nam Bộ.

   Người anh thứ sáu Nguyễn Phan Trà lúc mới 5 tuổi đã bộc lộ tài năng hiếm có, chơi được nhiều loại kèn Tây (trompettr, clarinette). Năm 1931 ông này được nhận vào nhạc viện Nancy-Paris và tám năm sau Hoàng cung Thái Lan mời làm trợ lý chuyên môn cho nhạc trưởng – Ban nhạc Hoàng gia Xiêm.

  Nếu vào thế kỷ 19 người Bình Định hay nhắc tới giai thoại văn học của cha con cậu Tú Khuê ở làng Vân Sơn xã Nhân Hậu với những văn sĩ lừng danh như Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì thì vào đầu thế kỷ 20 họ lại bàn về anh em họ Phạm là Phạm Văn Ký, Phạm Hổ, Phạm Thế Mỹ v.v…cuối cùng là giai thoại về tiếng đàn của cha con nhà Nguyễn Xuân Vinh 1895-1952)

  Nguyễn Xuân Vinh giỏi cả đàn Tranh lẫn đàn Nguyệt. Cuộc thi biểu diễn đàn dân tộc với qui mô lớn nhất nước vào năm 1930 tại kinh đô Huế. Ông đã đoạt giải quán quân về đàn tranh với số điểm tuyệt đối 20/20, so với giải nhì là ông Đội Trác chỉ chiếm 14,5 điểm. Thời bấy giờ các báo đã viết về tài xuất chúng của ông - thí sinh độc nhất không phải người Huế. Tờ Báo Paris Soir cũng phải thốt lên “Lần đầu tiên người Bình Định đàn Huế hay nhất Huế ”

   Không biết tự bao giờ những âm thanh kỳ ảo cung trầm, cung thương từ tiếng đàn ông Bảy thánh thoát nao chảy trong tôi dù chỉ qua âm hưởng của bài thơ:

Ngồi ở Dịch đình nghe đàn tranh
 (Kính tặng Nguyễn Xuân Vinh-Bảy Thiều- Nghệ sĩ tài hoa):

Đàn trôi êm êm qua đêm không sương
Nghe đàn trôi muôn lòng sôi yêu đương
Ôi mong lung ai rung giây tâm hồn
Đời cùng trôi cùng chơi vơi theo đàn

Trăng nương tường cong vin khóm lê
Hương ngưng lư đồng phong dáng nghê
Cánh vạc lạc đàn sa mái cuốn
Con đò lênh đênh quên bờ về
           
Xuyên qua vườn gòn lòn mây thu
Xuyên qua lầu đông thông vi vu
Đàn trôi, đàn trôi ngưng lưng trời
Tương tư tuông dòng chừng bao nguôi
            (Xuân Khai - Bình Định 1935)
(Lầu Dịch Đình-chỗ ấy nay là Nhà Văn Hóa thị xã An Nhơn)

Để khách quan hơn, tôi tìm hỏi thăm những người có tuổi như nhà nghiên cứu Văn học hiện đại - Đinh Tấn Dung, NSUT Khánh Cao cha của Nghệ sĩ nhân dân Trà Giang, nhà giáo Cao Kế, và anh chị em ở thị trấn An Nhơn về cụ Bảy.
  Khi cái tên Bảy Thiều được nhắc đến, ai cũng xuýt xoa “tiếng đàn của ông ấy là tiếng đàn “thoát tục”, tiếng đàn “ma quái”. Giữa đêm khuya thanh vắng, tại hiên nhà mình (số 92 Rue du Cửa Đông Bình Định), ông Bảy ngồi đàn. Tiếng đàn vừa rung lên âm thanh trầm bỗng, nhặt khoan trong không gian, thì không ai bảo ai, rất đông người, kể ca gia đình bề thế, hay người nước ngoài-Ấn độ, lặng lẽ đến ngồi cạnh nhau, chật cả ba bậc cấp Dịch Đình để thưởng thức.

    Nói về cụ Bảy Thiều, ông Tôn Thất Doãn thuật lại câu chuyện do ông Quách Tạo, nguyên là chánh án TAND LK5 cũng là nhà nghiên cứu văn nghệ thời bấy giờ, kể rằng:
  Xuân Thiều đàn tranh giỏi và nổi tiếng từ thời còn để chỏm nhờ có bố là danh cầm Xuân Kỷ-quê mẹ Tân An, quê nội Vĩnh Long, một vùng đất trù phú, chịu ảnh hưởng sâu sắc nếp sống phong lưu, tài tử. Bố của Xuân Thiều thường được các quan lớn vời về tư dinh hòa nhạc. Lúc bấy giờ có một vị Tổng đốc mới về nhậm chức, chơi đàn cũng kha khá nhưng bản tính tự cao, tự đại. Vị Tổng đốc ấy cao hứng mời hai cha con Bảy Thiều vào đọ tài, xem có đúng như lời khen của giới hâm mộ không. Trong cuộc thi tài, ông Tổng đốc chọn cây đàn tranh và mời mọi người hòa tấu một bản mở màn. Ngay từ lúc vừa khởi tấu vài câu dạo đầu “prélude” dành cho đàn tranh, Bảy Thiều vụt đứng dậy trước sự ngơ ngác của mọi người, lễ phép xin cáo biệt. Có một quan lớn trợn mắt quát, hỏi tại sao vô lễ thế, cậu bé chưa kịp trả lời, cha cậu nhanh nhẹn chạy đến bế xốc con và xin lỗi mọi người ra về. Về sau người ta mới biết lý do cậu bé vô lễ chỉ vì cậu không chịu được thái độ “kiêu kỳ” của tân Tổng đốc khi cậu nghe qua; thấy tiếng đàn của ông ta quá tồi.

   Người ta cho rằng “Tiếng đàn ông Bảy nếu những người rành về âm nhạc, đã một lần nghe thì không thể quên được.” Tình cờ tôi đọc được tờ “Nội san khảo cứu Văn hóa Phương Đông số 5-2003 (9) đã thú nhận: “Tôi là người may mắn còn sót lại cho đến hôm nay để kể lại đôi nét cảm nhận đặc biệt của mình đã hơn một lần được thưởng thức tiếng đàn tranh do nghệ sĩ Bảy Thiều biểu diễn… ” 

 Vào năm 1935, Triều đình Huế đã chọn một số nghệ sĩ đàn ưu tú nhất để tháp tùng Ban nhc Cung đình đi thi nhạc Huế tại New York. Nguyễn Xuân Vinh là một trong số người được cử đi. Thật không may, đúng lúc ấy thì vợ ông qua đời. Nỗi buồn mất vợ, nỗi buồn không được tham gia dịp may hiếm có trong đời, khiến vết thương lòng ông rộng ra. Càng buồn ông đàn càng hay. Nỗi buồn như luồn vào từng cung thương, cung trầm của ông khiến người nghe tưởng mình đang nghe những lời nức nở từ thế giới bên kia vọng về. Tiếng đàn của ông được nhiều người ngưỡng mộ, đánh giá cao trong những thập niên 50-60 thế kỷ 20.

  Ngày tạ thế của danh cầm tài hoa này đã để lại cho giới âm nhạc và người hâm mộ một mất mát lớn. Ông nghè Đào Thuyên ở làng Biểu Chánh khóc tiễn bạn:
Bất tại nhân gian Thập lục Huyền
Xuân Thiều danh nhạc tứ hoa niên
Sổ văn trích trích như tinh lạc
Kim nhật do hồ tự lãng tiên

 Dù quê hương An Nhơn nói riêng, Bình Định nói chung có lỡ quên ông thì ở tận bên kia trái đất vẫn còn có người rất trân trọng đã gìn giữ những gì ông để lại, dù rất ít ỏi. Họ cho biết:
  “Mới đây nhóm nghệ sĩ gốc Vit ở Pháp cho biết họ đã tìm thấy trong kho lưu trữ Tư liệu nhạc cổ Đông Dương, bản nhạc của một nhạc sĩ quá cố - đồng hương với thi sĩ Lâm Thanh Lang (Yến Lan) mà theo họ nói đã gặp nhiều khó khăn gần 30 năm trong việc xác định tên của tác giả - đó là bản Cung Nam Oán (còn gọi là Sài Gòn Oán khúc) ký hiệu SGOK. Bà Denise Nguyễn - thành viên quan trọng nhất của nhóm sưu tầm cho biết: Nhờ nét “âm hưởng” trong bài thơ mang tên “Nghe đàn tranh bên thềm Dịch Đình” của nhà thơ Yến Lan mới nhận ra bản nhạc mê ly này là của ông Bảy Thiều

 Tài sản của nhà danh cầm để lại không thể cân đo đong đếm được, vì đến thì vô hình, đi không để lại dáng! Nhưng những gì người ta còn nhớ về ông là đức độ và sự lao động nghiêm túc.

  Thể hiện cái nhìn công tâm về lịch sử và biểu lộ tấm lòng của người hôm nay đối với bậc tiền bối. Hy vọng rằng các nhà nghiên cứu về danh nhân Bình Định, hãy thẩm tra, phát hiện để tôn vinh, bảo tồn những vốn quí của quê hương, tuy muộn còn hơn không. 

  Nhân đây cũng xin nói về anh La Nhiên–người con trai út của ông Bảy Thiều một chút. Tên thật anh là Nguyễn Liên. Trong 9 năm kháng chiến, anh làm công tác phụ trách thiếu nhi. Bạn bè anh hay gán ghép anh với cô Nha (cô có em gái tên là Trang vì quê ở Nha Trang). Sinh hoạt cùng nhóm, thấy cô vừa xinh vừa hiền lại thông minh nên anh đem lòng yêu cô. Song le, ba anh-nhà danh cầm nổi tiếng không thể chấp nhận, vì ba cô Nha chỉ là một ông thợ sửa xe đạp - không môn đăng hộ đối! Nhưng anh thường trốn cha mẹ rủ cô đi chơi Qui Nhơn, Đập Đá. Cha anh biết, tìm cách ly tán họ. Không  được gặp nhau, nỗi nhớ anh quặn cả tim, rồi cô mắc bệnh thất tình, rồi uống thuốc tím tự tử... Câu chuyện tình của anh và cô Nha được các văn nghệ sĩ Bình Định bấy giờ viết thành kịch bản, lấy tên là “Chuyện tình Liên-Nha” diễn ở thị trấn nhiều lần. Sau đó chuyện tình này được quay thành phim tại Thành phố Marseille của Pháp.

   Nghe anh kể vậy chứ tôi chưa có cơ hội được xem!  

                                                Lâm Bích Thủy




READ MORE - ÂN TÌNH KHÓ PHAI - Lâm Bích Thủy

NGÀY EM ĐI - thơ Phan Minh Châu


Tác giả Phan Minh Châu


NGÀY EM ĐI
(Viết tặng cho những phụ nữ bất hạnh nhân ngày 8/3 )

Ngày mai em nhập viện
Để cắt đi khối u
Đã hình thành từ bao năm trước
Căn bịnh ác làm sao ta biết được
Cứ ăn luồn vào trong thịt xương em
Anh tiễn em đi bằng một chuyến tàu đêm
Khi căn bịnh không còn nằm im nữa
Em đau đớn cả trong từng hơi thở
Trong bửa cơm mỗi ngày không nhắc nỗi bàn tay
Mỗi cú phone anh thấp thỏm từng giây
Cứ lo sợ những điều tệ nhất
Em nức nở qua làn hơi di động
Khi cơn đau năm tháng hiện nguyên hình
Mai con vào ắt em sẽ vui hơn
Chiều bịnh viện mây không còn xám nửa
Em sẽ có những buổi chiều bình minh qua cửa
Những buổi mai nồng hơi ấm mùa xuân
Sẽ có những đóa hồng mừng ngày tám tháng ba
Không phải là anh mà là con mang đến
Con sẽ thay anh bằng tình yêu hiển hiện
Và những cánh hồng đến tuổi sẽ rưng rưng
Anh ngoài này dẫu có cô đơn
Đêm nằm ngủ mơ bao điều mộng mị
Nhưng có một giấc mơ mà theo anh có lẽ
Suốt đời này ta không thể xa nhau
Thôi em đừng buồn vì những cơn đau
Những cơn sốt triền miên,những đêm dài lặng lẽ
Bên kia sông ngôi sao hôm vừa hé
Bên này sông Trăng sáng đã soi đường.

Phan Minh Châu
Nhà 44 đường 13 khu đô thị Lê hồng Phong 2, Nha Trang, Khánh Hoà.


READ MORE - NGÀY EM ĐI - thơ Phan Minh Châu

DÒNG THƠ CÒN CHẢY BÊN ĐỜI - Phan Nam đọc thơ Nguyễn An Bình

Nhà thơ Nguyễn An Bình

DÒNG THƠ CÒN CHẢY BÊN ĐỜI
Phan Nam đọc thơ Nguyễn An Bình


Nguyễn An Bình, một tác giả quen thuộc trên thi đàn miền Nam trước năm 1975 vừa xuất bản tác phẩm mới “Mười năm bóng ngựa qua thềm cũ” (NXB Hội Nhà Văn 2016). Ra mắt tập thơ đầu tiên “Đường tim” vào năm 1970 khi ông mới 16 tuổi, mặc dầu có lúc mạch thơ tưởng chừng như đứt đoạn vì công cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền. Thế nhưng trong khoảng thời gian gần đây, dòng thơ của tác giả Nguyễn An Bình đang trỗi dậy mạnh mẽ với những vần thơ đầy trẻ trung yêu đời và tràn đầy đẹp đẽ thuở áo trắng tinh khôi. Phải chăng, những rung động xuyến xao một thời mơ mộng u hoài, của người thầy giáo già vẫn vẹn nguyên trên từng trang thơ ông viết, như đôi mắt ngây thơ của các cô cậu học trò nhỏ còn vương bụi phấn? “Tìm trong lá màu mắt em dịu ngọt/ Ẩn sau cành lấp lánh tiếng ve sôi/ Người đã xa theo mùa hè rực cháy/ Cánh phượng hồng thắm đỏ cả hồn tôi”, thơ ông lấp lánh một tình yêu đẹp, một mỹ cảm trọn vẹn với cái nhìn thân thương, quen thuộc gắn bó với biết bao thế hệ mỗi người đã từng đi qua một thời cắp sách đến trường. Chính tình yêu ấy đã thắp lửa trong tim, thắp lửa trong tâm hồn với những vần thơ nhẹ nhàng đong đầy tất cả nỗi nhớ, tất cả tin yêu mà tác giả đã gieo trọn cả cuộc đời mình. Đó là “một ngày tôi trở lại trường xưa/ thầy giáo cũ nhìn cái gì cũng lạ”, đó là “tôi đi tìm em, em lại tìm tôi/ đi hai hướng giữa hai bờ hạ trắng”, đó là “em xưa một đóa hồng xinh/ thả thơ theo gió thả tình theo sông”, đó là “con phố nhỏ chiều nay bừng sắc nhớ/ lại một mùa phượng tím trổ qua đây”... và nhiều, nhiều nữa những hình ảnh đẹp êm ả chảy trong thơ gợi trong lòng mỗi người một dòng sông huyển ảo, chảy hoài, chảy hoài chưa bao giờ ngừng lại. Ai đã từng đọc thơ Nguyễn An Bình mà không vương vấn, mà không nhớ nhung, mà không thổn thức, mà không hoài niệm... khi trang thơ thấm đẫm cái tình son sắt mà tác giả dày công vun đắp, để dòng thơ còn chảy mãi trong đời, làm thỏa lòng người yêu thơ. Chắc cũng bởi lý do ấy, thơ ông được nhiều người đọc và cảm nhận, được rất nhiều nhạc sĩ tìm đến phổ nhạc, có thể kể đến nhạc sĩ Hoài Yên, Nguyễn Trung Nguyên, Mộc Thiêng, Viết Hùng, Huy Thọ... Và thơ ông, âm vang trong lòng độc giả một cách rất tự nhiên như giọt tình thơ hòa quyện với những nốt nhạc trầm bổng khẽ khàng cất tiếng. Có thể nói qua 11 thi phẩm đã xuất bản, Nguyễn An Bình đã dành trọn cuộc đời mình với thi ca bằng tất cả những gì ông có, bằng tất cả niềm đam mê tận hiến cho đời, cho người, cho những nàng thơ còn vương vấn đâu đây.

Ta nợ nhau một cánh phượng hồng
Vương tà áo trắng thuở qua sông
Mưa bay trắng quá khung trời cũ
Nhìn cánh bèo xa chợt nhói lòng
(Ta còn nợ nhau)

Câu thơ ẩn chứa những gì tác giả muốn bày tỏ, muốn đi tìm,“ta còn nợ nhau” nên thơ viết mãi mà vẫn chưa dứt, bởi vì trần thế còn muôn ngàn vẻ đẹp khiến trái tim thi sĩ nhung nhớ, gửi gắm. Dòng thơ Nguyễn An Bình chảy qua thể thơ lục bát mượt mà, gói vào thể ngũ ngôn êm ả và đắm chìm trong những vẻ đẹp mong manh mơ hồ giữa cuộc đời. Đặc biệt nhất, trong thơ, người đọc luôn nhận ra nàng thơ hiện diện một cách bí ẩn và chan chứa một ánh nhìn vị tha, bao dung với cuộc sống. Nói như nhà thơ Trúc Linh Lan khi đọc tập thơ “mười năm bóng ngựa qua thềm cũ: “Mối tình học trò thường ít khi thành nợ phu thê, mà nó chỉ còn là kỷ niệm đẹp để ta giữ lại trong lòng, và nói như các nhà thơ, để ta làm thơ thương nhớ một thời, để nhận ra hiện thực cuộc đời không phải toàn là hoa hồng”. Có lẽ, những ký ức thuở xa xăm yêu người đã đi theo suốt năm tháng thi sĩ còn lưu trú trên trần thế, để rồi bung tỏa thành những đóa hoa xinh đẹp, một vẻ đẹp dịu êm và u buồn. Những người đọc thơ, làm thơ, yêu thơ hầu như đều dành tất cả những tình cảm tốt đẹp nhất đối với thơ Nguyễn An Bình. Đối với tôi cũng vậy, không hiểu sao thơ Nguyễn An Bình thoáng qua một cách rất nhẹ nhàng, tình cảm nhưng để lại trong lòng người nhiều cảm xúc đến vậy. Trong bối cảnh, người người nhà nhà tìm cách đổi mới thơ với sự ra đời của thơ tân hình thức, thơ hậu hiện đại nhưng đối với Nguyễn An Bình, ông vẫn giữ trọn cho mình tình yêu đặc biệt với thể thơ truyền thống, với những hình ảnh đẹp quen thuộc gắn bó trong tiềm thức mọi người. Nhưng có lẽ, ông cũng giữ cho riêng mình, những tâm tư vọng tưởng về ước muốn, khát khao chinh phục cái đẹp mà suốt đời ông cất bước đi tìm. Khi đọc thơ Nguyễn An Bình, nhà thơ Châu Thạch đã phải thốt lên: “Người đọc thơ Nguyễn An Bình như nghe tiếng gió bốn mùa, kể cả mùa đông, vẫn lướt nhẹ qua đồng cỏ xanh tươi và vẫn lướt nhẹ qua hầm sâu, hố thẳm. Khi thơ vui, niềm vui không ồn ào, như tiếng reo hò của con người điềm đạm, gợi trong lòng biết bao ấm áp, ngọt ngào. Khi thơ buồn, tiếng thơ buồn không chỉ ở trong lòng phát ra. Tiếng thơ buồn nghe như từ xa xôi vọng lại”. Và tôi cũng chắc chắn một điều, trong tất cả chúng ta khi đọc thơ ông, ai cũng đều có cảm nhận riêng cho mình, cảm nhận về quá khứ nồng nàn cháy bỏng của tuổi thanh xuân mà ai cũng phải có lần rung động, chảy bỏng với tình yêu đầu đời.

Em như con nước xuôi về biển
Để lại sông buồn trắng cỏ lau
Anh suốt đời thành chim bói cá
Treo tình sầu đá nhọn vực sâu.
(Rong rêu phận người)

Đến khi nỗi buồn dâng cao chất ngất, tiếng thơ sẽ nâng lên thành tiếng lòng, sự sáng tạo sẽ được người thi sĩ cởi áo, mang đến cho người đọc cảm xúc sâu lắng, khắc khoải. Sự thay thế của xúc cảm khi “con nước xuôi về biển”, nhưng thực ra người thi sĩ đang đắm chìm trong nỗi “buồn trắng cỏ lau”, treo ngược tâm hồn trên “đá nhọn vực sâu”. Thêm nữa, thơ Nguyễn An Bình còn được in vết trong mỗi vùng đất, mỗi địa danh mà thi sĩ đi qua, đi để cảm nhận và đi để tìm cảm xúc làm nên những viên ngọc lấp lánh trong cuộc đời. Để rồi, trong mỗi phút mỗi giây, thi sĩ tiếp tục viết nên “Đêm Bạc Liêu nghe đờn ca tài tử/ theo ai về hò hẹn đất phương Nam”, “Sài Gòn Sài Gòn cà phê/ hương thơm quyện mùi đặc sánh”, “Chợ Mới cù lao mùa gió thổi/ em về có qua bắc An Hòa”, “Lòng anh... ai bảo không vương vấn/ Đôi mắt Đà Lạt thật dễ thương”... Có thể nói, dòng thơ Nguyễn An Bình sẽ còn chảy mãi trong dòng đời, không chỉ trong hơn 150 trang viết đầy đặn trong tập thơ “mười năm bóng ngựa qua thềm cũ”. Khi những mốc thời gian dần trôi qua, chỉ còn dòng thơ ở lại bên đời.

Đà Nẵng, những ngày xuân 2017
PHAN NAM




-------------------------------------------------------
Tác giả: Phan Văn Nam, bút danh: Phan Nam.
Phone: 01686 642 109
Địa chỉ: Tổ 29, thôn Thanh Bôi, xã Tiên Châu, huyện Tiên Phước, Quảng Nam



READ MORE - DÒNG THƠ CÒN CHẢY BÊN ĐỜI - Phan Nam đọc thơ Nguyễn An Bình