LỊCH SỬ, NGUỒN GỐC PHÁT TRIỂN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI CỦA TRÀ
1. Tên khoa học
- Năm 1753, Carl Von Liaeus, nhà
thực vật học Thụy Điển, đặt tên
khoa học cây
trà là Thea sinensis, xác định cây trà có nguồn gốc Trung Quốc. Thế nhưng một số học giả Anh lại cho rằng
nguồn gốc cây trà
là Ấn Độ. Cuộc tranh luận về quê
hương cây trà
đã kéo dài trên hai thế kỷ.
- Năm 1976, Djemukhatze, Viện sĩ Thông
tấn Viện Hàn
lâm khoa học Liên
Xô (cũ), sau khi đi khảo sát
vùng trà
cổ thụ trong 2 năm tại miền bắc Việt
Nam, bằng phương pháp sinh hóa thực vật, lại xác định Việt Nam là quê hương cây trà trên thế giới, theo sơ đồ tiến hóa sau đây:
Camellia
-- trà Việt Nam -- trà
Vân
Nam lá to -- trà Trung
Quốc -- trà Ấn Độ
– Ta nên nhớ rằng: Khi
nhà thực vật học lấy một địa danh nào
đặt tên
(như sinensis: Trung Hoa) không có nghĩa nơi đó là cái nôi của một loài, mà thường do nơi đó là nơi lần đầu tiên phát hiện), do vậy không thể dựa vào từ "sinensis" để nói cây trà có nguồn gốc từ Trung Hoa.
2. Trà - huyền thoại và lịch sử
- Hình như tất cả những gì có người Trung Hoa tham gia vào đều có bên cạnh một vài huyền thoại; trà cũng không ngoại lệ. Ít
ra người Trung Hoa có
hai huyền thoại về trà:
một huyền thoại mang sắc thái người Hoa Bắc và một mang sắc thái người Hoa Nam.
. Huyền thoại
thứ nhất của người Hoa Bắc cho rằng cho rằng người đầu tiên
phát hiện ra trà
chính là Thần Nông
(2737- 2697 tr.
Công Nguyên). Truyền thuyết này
lại được giới thiệu trong cuốn Trà
Kinh của Lục Vũ (vào
năm 780 sau Công nguyên).
Vua Thần Nông là vị Hoàng Đế huyền thoại rất giỏi về nông nghiệp và y dược. Ngài nếm nhiều loại cây cỏ để tìm dược tính trị bệnh cho dân; “Thần Nông một ngày nếm thử một trăm loại thảo dược và
gặp bẩy mươi loại độc và
tự mình giải độc.”. Sự tích tìm ra cây trà của Thần Nông cũng được dệt bằng một huyền thoại thần bí.
Một hôm,
Vua Thần Nông
cùng vợ con lên
núi, giữa chừng núi
vua thấy khát
nước thì
ngay lúc đó một chiếc lá
rơi xuống cạnh chân
Ngài. Thần Nông
lượm lên
và vò nát trong tay mình, chất
nhựa dính
vào ngón tay và Ngài đưa lên miệng
nếm. Vị đăng đắng cho Thần Nông biết nó có dược tình và cảm thấy cơn khát mất đi. Thần Nông bèn đem chiếc lá đó sắc lên, và Ngài là người đầu tiên uống trà. Lại có truyền thuyết nói Thần Nông đun nước dưới một gốc cây, lá cây này rụng và rơi vào nồi. Nước trong nồi có màu vàng xanh và mùi vị thơm ngon, uống vào hết khát: đó là trà.
Người Trung Hoa chứng minh huyền thoại này
bằng cách
trưng ra cuốn ‘Thần Nông
Bản Thảo” , trong đó
có ghi tính dược cây
trà. Nhưng thực ra tác
phẩm này
là một biên
khảo vào
thời Tần-Hán
(khoảng năm 220 sau Công
Nguyên) do nhiều nhà
y học ghi chép
và về sau Đào
Hoằng Cảnh (457 – 536) chỉnh lý
lại và
người đời sau bổ sung và
sửa đổi khá
nhiều. Có
điều chúng
ta cần lưu ý
trong Trung Y (y học trung Hoa) không
thấy cổ phương danh tiếng nào
dùng trà làm vị thuốc và
trong các hiệu thuốc đông
dược chẳng thấy ai dùng
đến trà
cả.
Người Trung Hoa nói thế. Các học giả phương Tây dựa vào tài liệu Trung Hoa thuật lại thế và
chúng ta nhắm mắt tin thế. Rồi
người Nhật phụ họa thêm truyền thuyết trà là một cây thuốc như sau: vào đời Chiến Quốc một danh y truyền dạy y thuật cho con trai,
nhưng chỉ mới truyền được bảy phần thì ông qua đời. Tưởng là phần còn lại thất truyền, nào ngờ nơi mộ ông ta mọc lên một loại cây hội đủ dược tính phần y thuật còn truyền sót; đó là cây trà. Càng về sau, các tài liệu đều ghi: “Khởi đầu trà là một vị thuốc, sau trở thành thứ nước uống giải khát.”
Củng cố thêm cho nguồn gốc cây trà và văn hóa trà xuất phát từ Trung Hoa, người Hoa Bắc còn
đưa ra huyền thoại “Các
vua nhà Chu đã dùng trà tế lễ
từ năm 221 trước Công Nguyên”. Huyền thoại này thực sự có cơ sở chăng?! Nếu từ thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc người Trung Hoa đã dùng trà trong tế tự, ắt điều này phải có ghi trong các kinh lễ của các bậc thánh nhân như Chu Công và Khổng Tử. Đáng tiếc, Kinh Lễ hay Lễ Ký do Đức Khổng Tử san định cũng không
hề thấy nói
đến trà;
sách Luận Ngữ do học trò
ngài ghi lại các
lời Ngài
dạy hàng
ngày cũng chẳng thấy nói
đến trà;
Kinh Thi cũng do Ngài san định
là
một tác
phẩm ghi chép
lại các
bài ca dao trong dân gian không hề có
một chữ trà
hay chữ đồ. Trở ngược dòng
lịch sử, sách
Chu Lễ ghi rất chi li lễ tiết đời Chu
cũng không
thấy có
chữ trà,
Hoặc quay xuống đến đời Hán
chúng ta thấy có
cuốn Sử Ký
của Tư Mã
Thiên (khoảng những năm 90 trước
Công
Nguyên), có một thiên
Lễ Thư, hay Hán
Thư cũng không dành cho trà một
chữ. Qua đó có thể nói
ít nhất đến đời Hán
trà chưa hề được biết đến ở
Trung Hoa.
Trái lại chúng ta dễ dàng
thấy chữ “tửu” trong các
tác phẩm vừa nói,
với câu
nói nổi tiếng “Vô
tửu bất thành
lễ”. Điều này
cho thấy việc vua nhà
Chu dùng trà tế lễ là
sự gán ghép đời sau. Nho gia không phải rồi, vậy trà có phải của Đạo gia chăng?! Chắc chắn là
không vì biểu tượng thường đi kèm
với các
vị tiên
gia là phất trần và
bình rượu chứ không
phải ấm trà,
và giới đạo gia có
thứ rượu Quỳnh tương trên
tiên giới thần diệu như nước
cam lồ bên
Phật giáo.
Chỉ mãi sau đến đời Chu Hy (cuối Nam Tống) mới xuất hiện một bài
thơ gắn ông tiên với lò nấu trà. Như vậy có thể nói điều Lục Vũ ghi trong Trà Kinh “Thần Nông là ông tổ cây trà” có thể chỉ là lời lượm lặt trong dân gian thích thêu dệt huyền thoại của người Trung Hoa mà
thôi.
. Huyền thoại thứ hai của người Hoa Nam. Huyền thoại này
cho rằng chính
Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidarma), Sơ tổ
Thiền Trung Hoa, là người mang cây trà từ Ấn Độ vào Trung Hoa (năm 519 sau Công
Nguyên). Nhờ cây
trà mà Ngài thức suốt 9 năm để ngồi
nhìn
vách đá quán tưởng công
án. Tin vào truyền thuyết này
nên về sau Thiền Nam Tông
có nghi thức uống trà
trước tượng Bồ Đề Đạt Ma. Xoay quanh
Bồ Đề Đạt Ma lại có một huyền thoại thần bí hơn, lại do người Nhât phụ họa: Sau ba năm diện bích, tổ Đạt Ma kiệt sức và ngủ lịm đi. Khi tỉnh dậy, tổ hối hận và
lo lắng, cắt hai mi mắt mình
liệng xuống đất. Ít
lâu sau nơi đó mọc lên
một loại cây
bụi, tổ Đạt Ma lấy lá
của nó
nấu lên
uống thì
tỉnh ngủ hẳn. Và
Ngài tiếp tục diện bích
cho hết 9 năm.
- Cũng lưu ý
là các tác phẩm như Hán
Sở Tranh Hùng,
Tam quốc Chí
có nhiều lần nói
đến việc uống trà,
nhưng điều này
không thể khẳng định trà
có từ đời Hán
vì các tác phẩm này
viết vào
đời nhà
Minh, thời trà
Trung Hoa đang ở giai đoạn hoàng
kim. Việc các
cây bút văn chương lồng một số chi
tiết nho nhỏ quen thuộc đương thời vào câu chuyện không phải là điều không xảy ra nếu không muốn nói rất thường.
- Còn nếu lấy huyền thoại làm chứng cứ thì e rằng người Việt biết uống trà và có một nền văn hóa trà sâu xa từ thời Hùng Vương (ngang đời nhà Chu). Ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích Trương Chi – Mỵ Nương , hai chữ Mỵ Nương đủ khẳng định bối cảnh câu
chuyện xảy ra vào
thời Hùng
Vương rồi. Chuyện kể tóm
tắt rằng: Chàng
lái đò Trương Chi có giọng hát
thật hay làm
xiêu lòng Mỵ Nương. Nhưng khi gặp
khuôn
mặt xấu xí
của chàng
lái đò Mỵ Nương đâm
thất vọng, ngược lại trước nhan sắc
của Mỵ Nương Trương Chi về ốm tương tư rồi mất. Trương Chi chết hóa
thành một hòn
ngọc, người thợ đá
tạc thành
một cái
chén uống trà
dâng cho gia đình Mỵ Nương. Cứ mỗi
lần rót
nước trà
vào chén Mỵ Nương thấy trong đó
có hình chiếc đò
bơi qua bơi lại và
một tiếng hát
từ cõi xa xăm nào đó vọng lại. Thương cảm, Mỵ Nương khóc,
giọt nước mắt rơi vào
chén trà và chén trà tan thành nước.
- Bên cạnh, người Trung Hoa trưng ra một số tư liệu lịch sử để chứng minh nguồn gốc
cây
trà của họ. Sự viện dẫn này
dựa vào
thương mại để chứng minh cây
trà và văn hóa trà có nguồn gốc
từ Trung Hoa:
Dẫn
Con Đường Trà
Cổ (Trà
Mã Cổ Đạo):
Đây là con đường núi
ngoằn ngoèo
đi xuyên qua vùng núi Vân Nam – Tứ
Xuyên
phía Tây Nam trung Hoa, phương tiện vận
chuyển chủ yếu là lừa và
ngựa. Theo tư liệu của Trung Hoa
con đường này hình thành vào đời nhà Đường (618-907), và trà của Trung Hoa theo đường đó bán cho các nước phía Nam.
Điều này không mấy hữu lý vì tính theo thời gian vùng này thuộc về đất nước Nam Chiếu – Đại Lý. Thực tế
cũng cho thấy đời Đường chưa cai trị được vùng đất này, nếu không muốn nói có nhiều chiến tranh qua lại giữa Trung Hoa và
các bộ tộc (nhất là
khi vùng này hình thành quốc
gia) tại nơi đây. Cứ liệu
đáng
tin nhất; năm 629 khi Đường Tam Tạng có
ý qua Hồ Quốc (tức Ấn Độ) thỉnh
kinh, ông
phải lén
đi vì Đường Thái
Tông cấm đi ra nước ngoài.
Lý do cấm đoán
đó là vì các vùng biên giới
không
yên ổn và
nhà Đường lúc
đó không đủ sức thảo phạt . Tình
hình như thế cho thấy con đường
này
thực sự dưới quyền kiểm soát
của Nam Chiếu – Đại Lý,
trà từ vùng này chuyển đi các vùng lân cận và Hoa Nam để bán . Luận cứ này cho thấy con đường Trà Mã Cổ Đạo này không do nhà Đường mở ra, thực tế nó là một con đường tự phát nhằm trao đổi hàng hóa nhỏ lẻ với Hoa Nam và các nước lân cận Đại Lý. Trà quả là sản phẩm của con đường này nhưng chủ nhân là Đại Lý chứ không phải Trung Hoa. Chính vì thế ta sẽ thấy tập quán uống trà những nước quanh Đại Lý cũ không hề giống thói quen uống trà của người Trung Hoa.
(Phần huyền thoại và lịch
sử này được
trích từ quyển Trà Thư trong Trà Luận của nhà biên khảo Đức Chính)
3. Truy lại cội
nguồn nền văn hóa trà
Qua những điều trên chúng ta đã biết: Trà là sản phẩm của Con
Đường Trà
Cổ (Trà
Mã Cổ Đạo) và chủ nhân của nó là nước Đại Lý.
Lãnh thổ nước Đại Lý bao gồm 3 tỉnh: Vân
Nam, Quý Châu và tỉnh Tứ Xuyên
ngày nay. Nước này
còn chiếm một phần vùng
thượng du miền Bắc Việt Nam và
một phần lãnh
thổ của Myanmar hiện nay. Trước khi thành lập nước Đại Lý, vùng đất này là của người Bạch và người Di, gồm 6 bộ tộc (gọi là chiếu) Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng, Mông Xá, trong số đó Mông Xá là bộ tộc mạnh nhất nằm ở phía nam nên thường gọi là Nam Chiếu. Năm 737, thủ lãnh của Mông Xá là Bì La Cáp mượn thế lực của Đường Huyền Tông
thống nhất các
chiếu khác
thành lập ra nước Nam Chiếu.
Điều này
có ghi trong Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư: “Trong khoảng năm Khai
Nguyên
(713-742) đời vua Huyền Tông
nhà Đường, Nam Chiếu là
Bì La Cáp cường thịnh lên,
mà 5 chiếu kia suy hèn
đi. Bì La Cáp mới đút
lót cho quan tiết độ sứ đạo Kiếm Nam
là
Vương Dục để xin hợp cả 6
chiếu lại làm một.
Triều đình
nhà Đường thuận cho, và
đặt tên
là Qui Nghĩa. Từ đó
Nam Chiếu càng
ngày càng thịnh lên,
đem quân đi đánh Thổ Phồn (Tây
Tạng)…
Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông
rồi lại đổi là
Đại Lễ…”
Triều đại này tồn tại đến năm 902, Đoàn Tư Bình nổi lên thành lập nước Đại Lý.
(Hình Bản đồ nước Đại lý)
Vương Quốc Đại Lý tồn tại trên vùng đất này từ năm 937 cho đến năm 1253; kế tiếp nhau bởi 22 đời xưng
đế, trong đó có nhân vật
Đoàn
Chính Thuần được Kim Dung hư cấu
vào
tiểu thuyết võ
hiệp của mình.
Sau năm 1253, Đại Lý
mất vào
tay Nguyên Mông nhưng dòng họ Đoàn
vẫn cai trị vùng
đất này
với tước danh Tổng quản đến tận
năm 1387 (vị tổng quản cuối cùng là Đoàn Thế) bị diệt dưới tay Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Nước Đại Lý đổi thành phủ Đại Lý, người Bạch và người Di nước lưu lạc xuống phương Nam. Một số thành
các dân tộc người ở Việt Nam,
Lào
và Myanmar (như Thái Trắng, Thái
Đen, Thái Đỏ, Lô
lô, Nùng); một nhóm
đông hơn di chuyển sâu
về hướng Nam thành
lập nước Thái
Lan ngày nay.
Nếu Trung Hoa cho rằng Vân Nam – Tứ Xuyên ngày nay là của Trung Quốc nên nguồn gốc từ Trung Quốc mà ra; chúng ta cũng có thể nói vùng Thượng Du Bắc Việt Nam ngày nay của Việt Nam xưa thuộc Đại Lý, vậy Việt Nam cũng là cái nôi của thế giới. Theo
tôi
điều này
không hay ho chút nào. Hãy như người
Việt, cứ để nền văn hóa Óc Eo là tài sản của vương quốc Phù Nam, Tháp Chàm của người Chăm, … chứ không nhận bừa của người Việt. Tương tự, cội nguồn của trà
là người Đại Lý,
một vương quốc cổ nay không
còn nữa. Và
có thể các nhóm dân tộc dùng ngôn ngữ Tạng-Miến như người Thái vùng Tây-Bắc miền Bắc Việt Nam là một thành tố đại diện còn tồn tại đến ngày nay.
Nghiên cứu về văn hóa nên lấy mốc từ khi một sự kiện trở nên
phổ quát
và đi vào tư tưởng, chứ không
nên vin vào một vài
chứng cứ vật thể nhỏ để khẳng định
đã
có một nền văn hóa.
Cũng như khi cắm ngọn cờ trên
mặt trăng không
thể khẳng định con người đã
sống trên
mặt trăng vào
thời điểm đó.
Chính trị và
văn hóa khác biệt nhau ở chỗ này.
Vậy tại sao ngày nay khi nói đến trà người ta nghĩ ngay đến Trung Hoa và
Nhật Bản. Đó
là vì họ có
phương thức truyền bá
tư tưởng tốt: người Trung Hoa bằng các
huyền thoại và
cửa miệng các
Hoa Kiều (chưa kể ngụy thư đời sau viết
gán
cho người đời trước để làm
chứng cứ giả tạo); người Nhật có
tác phẩm Book of the Tea của
Okakura Kakuzo gây tiếng vang trên thế giới và gây tò mò người Phương Tây nơi nghi thức trà của họ vừa cầu kỳ vừa thoang thoảng kỳ bí.
(Phần truy lại cội nguồn này được trích từ quyển Trà Thư trong Trà Luận của nhà biên khảo Đức Chính)
4. Các giai đoạn phát triển trà
- Cây trà nguyên thổ sản của miền Hoa Nam, đã dược các nhà thực vật học và dược vật học Trung Hoa biết đến từ những thời đại rất xa
xưa. Các
văn gia cổ điển gọi nó
bằng những tên
khác nhau: Đồ (Tou), Thiết
(Tach), Thuấn (Chung), Giả (Kha), và Minh (Ming), và trà được tán dương là có hiệu năng làm cho người ta hết mệt nhọc, tinh thần sảng khoái,
ý chí tăng cường và
thị lực hồi phục. Người ta không
chỉ dùng trà làm thuốc uống bên trong, mà còn hay dùng như một thứ cao đắp ở bên ngoài để trị phong thấp nữa. Các môn đồ Đạo gia coi trà là một vị trọng yếu trong môn thuốc trường sinh bất lão; còn các tăng đồ Phật giáo thì thường dùng trà để chống lại cơn buồn ngủ trong những giờ ngồi trầm tư mặc
tưởng dài
đằng đẵng.
- Tuy nhiên, phương pháp uống trà thời kỳ ấy hãy còn cổ lỗ hết sức. Người ta lấy lá
trà đem hấp lên,
bỏ vào cối giã, làm thành bánh rồi đem nấu với gạo, gừng, muối, vỏ cam, hương liệu, sữa,
và
một đôi
khi cả hành nữa! Tập quán này cũng còn thịnh hành trong dân xứ Tây Tạng và các bộ tộc
Mông
Cổ, họ chế tất cả các
vị kể trên
thành một chất "xi rô"
kỳ xảo. Lối dùng
những lát
chanh của người Nga tập uống
trà
tại những đội thương lữ quán
Trung Hoa là một lối cổ còn
sót lại.
- Sau nhờ thiên tài của Đường triều, trà mới được "giải thoát" khỏi trạng thái thô lậu này và được lý tướng hóa một cách tuyệt diệu. Lục Vũ ở khoảng giữa thế kỷ thứ tám,
là đệ nhất sứ đồ của trà.
Ông sinh vào thời kỳ mà
Phật giáo,
Đạo giáo
và Khổng giáo
đang tìm đường tổng hợp với
nhau. Phiến thần luận của tượng trưng chủ nghĩa lúc bấy giờ có ý muốn phản chiếu cái "Phổ biến" (Universal) ra khỏi cái
"Đặc thù"
(the Particular). Lục Vũ là
một nhà
thơ, nhận thấy trong bộ đồ
trà
cũng có đủ cả sự điều hòa
và trật tự như trong mọi sự vật khác.
Trong tác phẩm danh tiếng của ông là cuốn Trà Kinh (Kinh thư của Trà Đạo), ông đã định thức hóa Pháp điển về Trà. Từ đó ông được thờ như vị thần giám hộ của các nhà buôn trà Trung Hoa.
- Nhưng trà chỉ thật sự phổ cập ở khắp Trung Hoa bắt đầu từ thời Nguyên
khi Đại Lý
bị diệt và
dòng họ Đoàn
quy thuận, trà
mới có
cơ sở thông
thương rộng hơn. Qua đời Minh
(1368-1644), việc buôn bán trà trở nên rất thịnh vượng nên triều đình lập ra “Bộ Trà Mã” để quản lý và thu thuế, kết quả tất yếu của việc sáp
nhập nước Đại Lý
vào Đại Minh. Trong bối cảnh đó
nhiều tay bút
bàn về trà
sinh sôi nảy nở là
điều tất yếu, và
thường hay đề danh tính
người đời trước để dễ thuyết phục
người đọc (đời nhà Minh nổi tiếng nhiều ngụy tác). Tuy vậy để xuất khẩu trà quy mô phải đợi đến khi kỹ thuật canh tác
phát triển và
trà được trồng nhiều ở các
vùng như Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết
Giang, Giang Tô, Lãnh Nam, Kinh Tương, Phúc Kiến, nghĩa là khó sớm hơn thế kỷ 14.
5. Bước đi của trà
- Vào cuối thế kỷ thứ mười sáu, người Hòa Lan truyền đi cái tin ở Đông phương có loại thức uống làm bằng một thứ lá cây rất ngon. Các nhà du lịch Giovanni Batista Ramusio (1559), L.Almeida (1576),
Maffeno (1528), Tareira (1610), cũng nói đến trà. Trong năm cuối cùng kể trên, thương thuyền của Hòa Lan Đông Ấn Độ Công ty đem những lá trà đầu tiên về Âu châu. Trà được nước Pháp biết đến năm 1636, và lọt vào nước Nga năm 1638. Năm 1650, nước Anh hoan nghênh
trà và khi nói đến trà
thì ca ngợi coi là
"một món
đồ uống ngon tuyệt, tất cả các
y sĩ đều tán
thành món đồ uống Trung Hoa, mà
người Trung Hoa gọi là
trà, các nước khác
thì gọi là
tê (thé) hay ti (tea)". Trà
đã bắt đầu được coi là
thức uống quốc tế
Sự giao lưu thương mại giữa Trung Hoa và
các nước phương Tây
ngày một lớn mạnh bắt đầu từ triều đại
nhà
Thanh. Khi Hoàng đế Trung Hoa “ngự
hít”
điếu thuốc lá
đầu tiên
được mang đến từ Châu
Âu, thì Nữ hoàng
Anh Quốc cũng đang nhấm nháp
tách trà đầu tiên.
Vào khoảng năm 1615, các
thương gia Anh Quốc với công
ty Đông Ấn Độ nhận thức được
sự có
mặt của Trà.
Trà đã nhanh chóng được truyền bá
khắp Châu
Âu và gần 100 năm sau, khối
lượng trà
nhập khẩu vào
Anh tăng từ 100 pound/năm lên
đến hơn 5 triệu pound/năm. Điều này
đòi hỏi cần phải có
nhiều phương tiện lớn mới mang được
tải trọng trà như thế từ
Trung Hoa.
- Tại Anh:
Theo sử liệu,thì chính Nữ Công Tước Bedford, tác giả quyển “Năm giờ uống trà” rất được người Anh ưa thích. Bà cũng là
người đã
tạo ra phong trào
uống trà
vào buổi chiều tại xứ sương mù.
Ngày nay tới nhà
bất cứ một người Anh nào,
đặc biệt là
giới trung và
thượng lưu trí
thức, ai cũng phải lóe
mắt trước sự khéo
tay và vô cùng thẩm mỹ của các
bà nội trợ , trong việc trang trí
bàn uống trà
với khăn phủ bàn
có bình hoa tươi và bộ bình
trà làm bằng bạc và
sứ men Trung Hoa. Người Anh từ lâu
có tập quán
đãi khách loại trà
sữa hay trà
chanh. Cũng theo sử liệu, thì vào thế kỷ XVIII, khi Anh chiếm Hồng Kông
và nhiều thành
phố lớn khác
tại Trung Hoa như Thiên
Tân, Thượng Hải, Quảng Châu
đã du nhập tập tính
uống trà
của người Tàu
về bản quốc.
Tập quán uống trà ở Anh phát triển mau lẹ không thể tưởng tượng dược, trong nửa đầu thế kỷ thứ mười tám,
những quán
cà phê ở London, trên
thực tế, đã
biến thành
những phòng
trà, nơi hẹn hò
của những bậc anh tài
như Addison và Steele, tiêu khiển bên
những "món
trà”. Chẳng bao lâu,
trà trở thành
một món
cần thiết cho đời sống sinh hoạt -
một món
có thể đánh thuế được.
- Tại Hoa Kỳ: Hằng năm theo thống kê, thì dân chúng Hoa Kỳ tiêu thụ cả chục triệu tấn trà, bằng mọi hình thức như uống nóng, lạnh, trà nguyên chất hay ướp các loại hoa, uống không hay uống chung với đường thêm mật ong, sữa, kem, chanh. Người Mỹ uống nhiều loại trà,
từ thứ gọi là
Decaffeinated Tea hoặc các
loại trà
lá, kể cả dược trà
bằng lá
ổi, lá hồng để trị bệnh va làn tan mỡ, gọi là Herbal Tea.
Xin được nhắc qua về vụ Trà đã dự phần hết sức quan trọng trong sự kiện lịch sử hiện đại. Thuộc địa Mỹ cam chịu áp chế cuả Anh cho đến khi sức nhẫn nhục của con người không thể chịu đựng được nữa, phải nổi dậy trước những khoản thuế quá nặng đánh vào Trà. Nền độc lập của Mỹ bắt đầu từ ngày
người ta quẳng những thùng
trà xuống hải cảng Boston: Người Mỹ đã vùng dậy mà ném cả 342 thùng trà xuống biển, để rồi bắt đầu cuộc khởi nghĩa giành
độc lập năm 1773. Cố nhiên
là không lỗi ở trà, và cũng không phải chỉ vì trà, mà còn nhiều lý
do khác nữa; nhưng đã nói đến trà thì cứ nên cho rằng, nhờ đó mà cái gọi là Boston Tea Party trở thành bất hủ.
- Tại Nhật: Cuối
thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với Thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hoá
vật chất và
tôn giáo này, đem nó hoà quyện với
văn hoá
bản địa và
nâng lên thành triết lý
riêng của dân
tộc là
Trà Đạo.
Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tôn giáo, khiến cuộc thưởng trà trở thành một cuộc lễ.
Ngày nay Triết Lý Trà của người Nhật đã trở thành một nghi thức chính thống của một tôn giáo gọi là Trà Đạo, hình thành từ thời kỳ Mạc Phủ Tướng Quân ở thế kỷ thứ XV. Những trà đồ trước khi bước vào trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào bon chen, nhập vào sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết kể cả cái ta phiền toái đáng phiền.
- Cho đến thế kỷ 19 mà Trung Hoa vẫn còn là nơi độc quyền sản xuất trà bán ra khắp toàn thế giới. Thuở ấy người ta chỉ mới biết mua trà
về pha chế thêm,
mang bỏ vào hộp, đóng thùng dán lên các thứ nhãn hiệu rồi đưa đi bán lại mà thôi. Càng ngày thấy nhu cầu càng tăng và nguồn lợi càng rõ ràng vĩ đại, người ta nghĩ đến mang giống trà
đi trồng ở các
miền đất đai các
xứ khác
mới đủ cung cấp cho cả thế giới.
Người Anh quốc là kẻ tiên phong đã biết dùng ngay đất thuộc địa của mình, tức là xứ Ấn Độ thời ấy, làm nơi trồng trọt và sản xuất trà, thay vì phải mua từ người Trung Hoa. Họ đã
lấy giống trà
từ Trung Hoa, đón
một số chuyên
viên Trung Hoa trong ngành trồng
tỉa cũng như pha chế, đưa những người nầy sang Ấn Độ để dạy cách
thức trồng trọt pha chế cho dân
địa phương, và
họ đã thành công.
Ngoài ra còn những vùng mà cây trà được trời ban cho cũng mọc lên tự nhiên và hợp khí hậu không kém trà của Trung Hoa đó là những vùng như Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai, Lào, Miên.
(Còn tiếp nhiều
kỳ)
Nguyên Lạc