Khi nói thị xã của những người từng chết, thường
khiến ta nghĩ đến những nghĩa trang xinh đẹp sang trọng mà người
chết thường là thân nhân của những kẻ giàu có. Họ muốn tỏ lòng
thương tiếc người quá cố thật sự, mà cũng có thể đó là cách để
người sống phô trương sự giàu sang của mình. Biết đâu người nằm
dưới lòng ngôi mộ có lối kiến trúc như một đền đài tráng lệ thu
hẹp kia, lúc sống lại bị con cái ghẻ lạnh, có khi còn bị bỏ đói
nữa là đằng khác. Ôi có nhiều nguyên nhân để người ta đổ tiền của
ra để xây một ngôi lăng mộ cho thật hoành tráng. Mà biết đâu số tiền
bỏ ra xây cất chỉ bằng một phần trăm phần ngàn số tiền thu lại
được… Nhưng không. Tôi không nói đến cái thị xã kiểu đó. Cái thị
xã tôi nói ở đây là thị xã của những con người sống thực sự và
họ là những người thực sự đã trải qua một cái chết. Có người
được moi lên từ đống gạch vụn. Có người được đem về từ nhà xác
sau khi bệnh viện hoặc trạm xá nào đó đã lập giấy chứng tử. Có
người đã thấy tận mắt người nầy đã bị nổ tung trong một chiếc xe
trúng mìn. Nhưng giờ thì người ấy vẫn còn sống sờ sờ ra đó. Vậy
thì gọi thị xã nầy là gì? Cái thị xã có đến trên mười ngàn
người chết trong vòng ba tháng ấy! Tất nhiên không có sự thống kê
người chết nào trên thế giới mà chính xác cả. Có người chết đã
qua mấy cái giỗ lại lù lù trở về. Có kẻ đã chết mười đời tu
huýt mà người thân vẫn nhận lương tháng đều đều. Đấy là chưa kể
những người còn sống lồ lộ trước mắt mà thực sự tâm hồn họ đã
bị giết chết do hoàn cảnh nghiệt ngã nào đó. Tôi trở về thăm thị
xã của những con người như thế. Trong đó có một người thân thương
nhất của đời tôi trước đây.
Sở dĩ tôi nhớ không sai ngày tôi rời xa thị xã nhỏ
ấy, nơi tôi sống qua tuổi học trò của mình, đến nay là đã trên hai
mươi năm, vì quê tôi chỉ cách thị xã chưa đầy mươi cây số và ngày đó
tôi cùng bà con thị xã rời quê hương mình trong cảnh trên đầu thì
đạn vãi như mưa, dưới chân thì ngổn ngang xác chết. Trong sóng người
giẫm đạp lên nhau mà chạy đó có người tôi yêu. Một nữ sinh nhỏ hơn
tôi hai lớp của trường trung học thị xã. Ra đi như thế có muốn quên,
và tôi đã bao lần muốn quên, nhưng
quên sao được. Tôi bay đi như con chim bị bão lùa. Quay cuồng,
vùi dập, xác xơ. Mấy mươi năm sau lại quay về. Trong lòng nguyên vẹn
những thương tích. Cùng với mặc cảm của người vô tình bạc nghĩa.
Đi chi mà đi dữ rứa. Một người bà con đã vịn vai tôi khóc khi thấy
tôi trở về.
Từ thành phố nơi tôi đang sinh sống, về quê chưa đầy
mấy tiếng tôi vội vã lên thăm thị xã với hy vọng mỏng manh sẽ gặp
lại những người thân yêu cũ.
- Xin lỗi, chị cho tôi hỏi, chị ở đây đã lâu chưa?
Người đàn bà ngồi ở ngưỡng cửa đang cho đứa bé ăn
cháo, nghe hỏi nhìn ra.
- Lâu rồi, có chuyện gì không anh?
- Tôi muốn hỏi con đường Quang Trung trước giải
phóng giờ là đường nào đây chị?
- Dưới chân anh đấy. Người đàn bà trả lời và giải thích
thêm - Giờ là đường Trần Phú.
- Vậy thì bến xe thị xã hồi đó ở đâu?
- Ngay sau lưng anh.
Tôi ngoảnh lại phía sau lưng, bên kia đường là một
dãy nhà san sát. Mấy cái nhà cấp bốn như bị mấy ngôi nhà lầu kẹp
chặt không thể vùng vẫy. Bán tín bán nghi tôi hỏi lại:
- Chị ở đây lâu chưa.
- Cũng mấy chục năm.
- Trước hay sau giải phóng.
- Sau. Vợ chồng tôi đều là thương binh. Sau giải
phóng được nhà nước cấp ngôi nhà nầy. Người đàn bà thở ra: Cả hai
vợ chồng tôi chết đi sống lại giờ mới được được cấp ngôi nhà nầy
đây anh à. Anh hỏi ai?
- Nhà một người bạn gái trước ngày giải phóng.
Tôi nhìn quanh và nói - Nếu đây là đường Quang Trung và bến xe phía
bên đó thì nhà người ấy chắc cũng là một trong mấy cái nầy.
Người đàn bà lắc đầu cười:
- Khi chúng tôi đến đây thì chẳng còn nhà cửa gì
cả. Xe ủi đã san bằng để phân lô lại. Nhà nầy tôi xây năm… Người
đàn bà nhìn lên phía trên bậu cửa có đúc hàng số ghi năm xây cất.
Tôi chào người đàn bà rồi lửng thững bước đi.
Cảnh cũ chẳng còn, người xưa cũng mất. Tôi không còn tâm trạng để
dạo quanh tham quan nơi chốn mà trước đây lòng cứ thiết tha mong có
một ngày trở lại.Tất cả đã hoàn toàn xa lạ.
- Anh gì đó ơi!
Tôi quay lại. Người đàn bà lúc nãy bước ra đường
gọi vói theo.
- Có gì không chị?
- Cách đây năm nhà, người đàn bà chỉ tay hướng tôi
đang đi, nói: Nhà của chị Ba, trước giải phóng là người của khu
phố nầy. Anh đến đó hỏi thăm thử.
Tôi gõ cửa, một cô gái có lẽ mới qua tuổi học
sinh chưa lâu bước ra.
- Chú hỏi ai?
- Chú có chút việc muốn hỏi thăm chủ ngôi nhà
nầy.
- Chú đợi cháu đi gọi dì cháu.
Cô gái chạy lui nhà sau.
Một người đàn bà bước ra. Tôi không đoán được tuổi
vì phía mặt bên trái của người đàn bà có vài vệt mầu đỏ hẩm, da
láng căng. Có lẽ bà ta đã phải trải qua một cơn cháy bỏng khá
nặng. Một cái sẹo tuy không lớn nằm sát dưới cằm cũng đủ làm môi
dưới của người đàn bà biến dạng để khó ai có thể nhận ra nét vẻ
thời con gái của người đàn bà. Chỉ còn lại đôi mắt với hàng mi cong
vút và chiếc mũi thẳng đủ để cứu vớt khuôn mặt người đàn bà lại
cho có vẻ dễ coi. Chắc chắn người đàn bà nầy có một thời xuân
sắc. Trên tay đang bưng li nước, người đàn bà hỏi:
- Anh hỏi ai?
- Xin lỗi chị ở đây từ trước giải phóng phải
không?
- Dạ.
- Cũng ngôi nhà nầy?
- Làm gì còn ngôi nhà nào trước giải phóng. Anh
muốn tìm cái gì đó trước giải phóng thì chỉ nước đào đất lên.
Nói xong người đàn bà chăm chăm nhìn tôi. Có phải do mắt bà nhìn
tôi không rõ chăng.
- Tôi muốn hỏi thăm một người. Trước cũng ở quanh
quẩn đâu đây, gần bến xe thị xã.
Người đàn bà
gật đầu. Cái gật đầu xác nhận có cái gì đó trong câu nói của tôi
là đúng, khiến tôi phấn khởi.
- Vậy anh hỏi ai?
- Hồng. Cô Nguyễn Thị Hồng. Những năm bảy mươi cô
ấy còn là nữ sinh trường trung học NH.
Tôi để ý thấy bàn tay người đàn bà cầm chiếc li
bỗng nhiên run run như không có khả năng cầm chặt một vật gì. Tôi hốt
hoảng kêu lên khi bà ta buông chiếc li rơi xuống đất. Một tiếng xoảng
nước bắn tung tóe. Cô cháu ở dưới bếp chạy lên. Gọi lớn:
- Có sao không dì?
Người đàn bà lắc đầu rồi quờ quạng tìm chiếc
ghế đẩu bên cạnh ngồi xuống. Tôi thảng thốt hỏi:
- Chị có sao không ?
Người đàn bà lại lắc đầu chỉ tay vào chiếc ghế
còn lại có ý mời tôi ngồi.
Đứa cháu vừa nhặt mảnh vụn vừa nói:
- Không sao đâu chú, lâu lâu có chuyện gì căng thẳng
trong nhà dì cháu vẫn thường hay như vậy. Chỉ vài phút thì hết
thôi.
Người đàn bà nhìn ra đường đôi mắt không tập trung.
Giọng bà chưa hết cơn run rẩy.
- Khi nãy anh hỏi cô Nguyễn Thị Hồng phải không? Anh
là gì của cô ấy.
Đáng lẽ thấy sức khỏe suy sụp của người đàn bà
tôi nên khuyên bà vào nghỉ, nhưng khi nghe bà nhắc tên Hồng, tôi không
tự chủ được vội chụp lấy hỏi.
- Tôi là bạn của Hồng thời trung học. Chị biết cô
Hồng?
Người đàn bà hỏi lại:
- Chỉ là bạn thôi sao?
Làm thinh một lát, rồi bằng thứ giọng lạnh như
nước đá, bà nói:
- Hồng chết rồi. Chết trong cuộc chạy loạn năm bảy
hai.
Bà hướng nhìn ra đường cái đôi mắt như vô hồn.
- Chị biết chính xác chứ.
- Chính xác. Sao, sau mấy mươi năm mới trở lại tìm?
À mà chỉ bạn học thôi. Tình cờ đi qua rồi ghé hỏi thăm thôi. Người
đàn bà như tự nói với chính mình, rồi lặp lại:
- Nguyễn Thị Hồng chết lâu rồi.
Tôi thấy có giải thích cho người đàn bà hiểu rằng
tôi yêu và thương nhớ Hồng mấy mươi năm qua như thế nào cũng chẳng
ích chi. Bây giờ tôi chỉ muốn biết một điều là người đàn bà trước
mặt mình có biết đích xác là Hồng đã chết chưa.
- Chị thấy tận mắt cái chết của Hồng hay chỉ nghe
người ta kể lại?
Vẫn lạnh băng, giọng người đàn bà như thoát ra từ
một xác ướp cách đây đã hàng trăm năm:
- Tận mắt.
Bất chợt tôi nhận ra có một cái gì đó của sự
sống thoáng hiện trong ánh mắt vô hồn của người đàn bà. Chỉ một
thoáng thôi rồi trở lại vẻ không thần sắc.
- Chị có mệt lắm không? Nếu mệt thì chị vào nằm
nghỉ. Tôi cảm ơn chị đã cho tôi biết cái tin vừa rồi.
- Anh không muốn biết cặn kẽ cái chết của người
bạn anh sao? Vậy thì xin phép tôi vào nghỉ.
- Dạ rất muốn nhưng ngại chị còn mệt.
- Không sao. Giọng nói của người đàn bà chậm rãi
có khi như muốn hụt hơi, kể lại tình hình hỗn loạn lúc bấy giờ.
Mỗi lần thế tôi ái ngại:
- Chị mệt lắm không?
Người đàn bà lại lắc đầu. Bà kể tiếp:
- Gia đình tôi và gia đình cô ấy cùng định leo lên
một chiếc xe quân sự lúc di tản. Nhưng Hồng không nhảy lên kịp phải
bám vào chiếc xe sau. Chạy được chừng vài cây số đến gần Long Hưng
thì tôi thấy xe của Hồng bốc cháy.. . Người đàn bà ngưng kể. Tôi
cũng lặng người không hỏi gì thêm. Kể đến đây hình như nỗi thống
khổ đã đánh thức đôi mắt người đàn bà khôi phục thần sắc trở
lại. Chợt bà quay sang nhìn tôi. Không biết trong ánh mắt nhìn của
bà có cái gì đó làm tôi hốt hoảng. Tôi định tâm và tự nhủ có lẽ
do mình quá xúc động vì cái chết của Hồng. Chợt người đàn bà vịn
ghế đứng dậy và nói:
- Trước lúc chạy lui bám xe sau, Hồng ném cho tôi
cái xách nhờ mang hộ. Trong đó tôi còn giữ cái nầy. Người đàn bà
bỏ vào phòng. Lát sau bà liểng khiểng bước ra, trên tay cầm một
mảnh giấy gì đó như là tấm ảnh. Người đàn bà chìa ra trước mặt
tôi và nói:
- Anh xem có phải Hồng nầy không.
Nhìn kỹ. Hồng! Đúng là Hồng. Tôi không quên tấm
ảnh nầy. Tôi và Hồng chụp trước cổng trường NH dưới gốc cây dương
liễu. Đó là cuối năm Hồng học lớp đệ tam. Tôi quay sang người đàn
bà và nói:
- Đúng là Hồng, chị ạ.
Sau cái cảm giác
thảng thốt là một nỗi buồn nhào trộn với nỗi tuyệt vọng: Vậy là
Hồng đã chết thật rồi. Một chặp thật lâu tôi mới mở miệng
được.Tôi nói với người đàn bà:
- Nếu được chị cho tôi xin tấm hình nầy.
Người đàn bà vẫn nhìn ra ngõ:
- Không. Đó là một kỷ niệm đau buồn đối với tôi.
Cuộc đời thật kỳ lạ. Đôi khi con người ta sống được cũng nhờ biết
giữ trọn vẹn cho mình những kỷ niệm đau buồn đấy anh ạ.
Thấy người đàn bà đã quá mỏi mệt, tôi phải chào
từ giã với một cảm giác thật kỳ lạ giống như khi phải xa một cái
gì đó thật thân thuộc mà mình không còn có quyền giữ riêng cho
mình nữa.
Tôi không đi xe ôm, muốn tản bộ một mình cho hết con
đường Trần Phú, trước đây là đường Quang Trung mà tuổi thơ tôi hàng
ngàn lần qua lại. Trong lòng chẳng buồn hỏi thăm ai một điều gì
nữa.
Đi qua khỏi trường Trung học Phổ thông thị xã. Rẽ
trái, tôi mường tượng ra vị trí ngôi trường NH, một thời tôi và
Hồng đã học trung học ở đó. Nó phải cách chỗ tôi đang đi chừng năm
trăm mét nữa. Và tất nhiên tôi cũng biết ngôi trường đó giờ cũng
đã chôn sâu dưới mặt đất. Nhưng đến khúc đường mà tôi đinh ninh là
vị trí ngôi trường xưa thì thấy nhà cửa hai bên cũng mọc san sát
nhau.
Đành phải hỏi thăm thôi.
- Anh cho tôi hỏi thăm, anh ở đây lâu chưa?
- Lâu. Anh hỏi ai ?
- Tôi muốn hỏi ngôi trường Trung học NH trước giải
phóng giờ ở đâu?
- À, chỗ đó bây giờ là Trường trung học thị xã
mà anh mới đi qua đấy.
- Anh có nhầm không?
- Sao lại nhầm! Tôi là học sinh lớp đệ thất đầu
tiên của trường NH đây.
- Vậy mà tôi cứ nghĩ tất cả những gì của cái
thị xã bất hạnh nầy trước năm bảy lăm đều đã chôn vùi dưới mặt
đất.
- Nghĩ vậy thì có gì sai đâu. Tôi cũng được người
ta moi lên từ dưới mặt đất đây. Mà sao lại gọi thị xã nầy là thị
xã bất hạnh? Thị xã anh hùng nhất nước đấy chứ. Anh cứ nghĩ trên
mười ngàn người chết trong vòng ba tháng cũng vì giành giật cái
mảnh đất mười mấy hec-ta nầy. Nói xong, đôi môi của người đàn ông
như bị co rút lại trong cái dáng vẻ khó biết là người nói muốn
khóc hay muốn cười.
- Anh ở đâu mới đến hả? Chắc cũng là học sinh cũ
của trường NH phải không?
Tôi trở lại Trường trung học phổ thông thị xã. Anh
giáo viên trẻ giới thiệu cho tôi vị trí của trường NH. Chỗ nầy
trước kia là cổng, phía đó là dãy lầu hai tàng… Tôi lắc đầu tỏ ra
không hiểu nổi và xót xa với ý nghĩ rằng có lẽ vài trăm năm sau
người ta mới đào lớp đất tôi đang đứng đây để tìm hiểu về những
sự thực được vùi lấp dưới đấy, mà tôi là người trong cuộc cùng
thời lại chẳng biết một điều gì cả.
- Chú ở nước ngoài mới về?
Tôi gật đầu. Dù tôi không phải ở nước ngoài về. Bạn
đừng hiểu nhầm. Chỉ vì tôi thấy xấu hổ: Mình ở trong nước mà
phải đợi đến mấy mươi năm sau cơn khói lửa mới trở về tìm tin tức
những người thân yêu cũ. Hỏi còn tình nghĩa chỗ nào nữa mà trở
về! Nhưng tôi có hoàn cảnh và tâm sự của riêng tôi.
Ngoài việc tìm kiếm
tin tức của Hồng ra, tôi còn một điều tâm niệm nữa là tìm
một thằng bạn thuở trung học. Quê nó trước kia thuộc ngoại vi thị
xã nhưng nghe nói bây giờ đã nằm trong vùng quy hoạch thị xã mới.
Thuở đi hoc tôi cũng thỉnh thoảng đạp xe đến nhà nó. Ăn cơm ở nhà
nó mấy lần. Đường tới xóm cũ bây giờ tôi chỉ nhận ra được mỗi chiếc
cầu đúc, còn tất cả đã đổi khác. Tìm hỏi những người cùng lứa
tuổi tôi trở lên, tuyệt nhiên không
ai biết tên Họat. Ra đường hỏi trẻ con. Nghe có vẻ nghịch lí. Nhưng
người lớn thì tôi đã hỏi nhiều rồi.
Tôi chuyển qua tìm hỏi những đứa trẻ. Cuối cùng phải đến mấy đứa,
tôi mới chộp được một cu cậu đang chạy xe đạp liếng thoắng ngược
hướng về tôi. Chắc là nó tưởng tượng đang lái xe con hay xe tải gì
đó. Hai chân đạp vù vù hai tay không ngớt bẻ vô lăng trái phải.
- Nầy cậu bé. Tôi đưa tay ra chận thằng cu lại. No
thắng gấp quá nên bánh xe sau trượt một
đoạn dài mới dừng lại trước mặt tôi.
- Cho chú hỏi
một chút. Ở khu nầy cháu biết có người nào cỡ tuổi chú mà tên
Hoạt không?
Thằng bé im lặng suy nghĩ một đỗi.
- Dạ có, chú Năm Hoạt phải không? Chú ấy chết
rồi.
- Chú Hoạt chết rồi sao. Nhà chú ấy ở đâu cháu
dẫn chú đến thăm một chút được không?
- Chú theo cháu. Đứa bé vui vẻ dẫn xe đi bộ cùng
tôi.
- Nhà chú Hoạt ở đường nào để chú chở đi.
- Gần tượng đài.
Nhà thằng bạn hồi đó tôi nhớ, có ở bên tượng đài
nào đâu. Mình ngớ ngẩn thật, giờ thì ở đâu mà chẳng có tượng
đài. Theo tay cậu bé chỉ tôi lai nó và đạp gấp rút. Tôi bảo cậu
bé:
- Đi nhanh một chút, chú phải về ga cho kịp chuyến
tàu chiều.
- Về đâu?
- Vào thành phố.
-Thành phố đó xa không?
- Xa lắm phải đi tàu mất hai đêm một ngày.
Đi quanh co một chặp,
đứa bé bảo dừng lại trước một ngôi nhà đúc có vẻ như mới xây.
- Nhà chú Hoạt đó. Nói xong đứa bé đạp xe vù
chạy, hai tay không ngớt bẻ vô lăng.
Một cậu con trai lớn hơn thằng bé khi nãy một chút
trong nhà đi ra hỏi:
- Chú hỏi ai ?
- Chú muốn hỏi nhà chú Hoạt.
- Dạ cháu là Hoạt đây. Chú hỏi gì?
Tôi chưng hửng. Thằng bé bảo Hoạt cỡ tuổi mình đã
chết rồi kia mà.
- Có lẽ chú nhầm, thôi chào cháu.
Lúc trở về đi qua thị xã sao tôi lại muốn đi bộ
qua con đường Quang Trung một lần nữa. Đi nhưng giờ thì không tìm ai
cả. Hồng đã chết. Đường phố chẳng còn ai quen. Rồi nghĩ lại người
đàn ông được người ta moi lên từ dưới đất mà tôi gặp ban sáng. Trong
chiến tranh, nhiều chuyện phi lí đều có thể trở thành có lí. Vậy
thì biết đâu Hồng chưa chết trong chuyến xe định mệnh kia và đang
sinh sống tại một nơi nào đó. Ý nghĩ ấy thôi thúc tôi tìm hỏi một
lần nữa dù không mấy hy vọng lắm.
Hỏi mấy nhà
gặp toàn người lạ. Hầu hết họ đều nói giọng Bắc. Điều đó có
nghĩa là họ là cán bộ mới được cấp nhà sau nầy. Cuối cùng cũng
gặp được một bà cố cựu ở đường nầy, trạc hơn tôi năm bảy tuổi.
Bà khẳng định:
- Ai bảo cô Hồng chết trên xe? Cô Hồng đang sống ở
ngôi nhà 120 đấy, anh đã đến đó hỏi chưa?
Tôi nói:
- Không phải. Tôi đã vào hỏi thăm chị ấy rồi. Chị
Ba ấy trước đây là bạn của cô Hồng.
- Vậy thì tôi không biết.
Tôi lên chuyến tàu năm giờ chiều để về thành phố.
Lên tàu rồi nhưng tôi vẫn đứng ở cửa lên xuống. Tôi muốn nhìn thấy
thị xã một lần cuối trước khi tàu chuyển bánh. Trong đầu tôi lại
hiện về hình ảnh những người tôi đã tìm gặp và những câu nói của
họ. Vợ chồng tôi chết đi sống lại mới được cấp ngôi nhà nầy. Tôi
cũng được người ta moi từ dười đất lên… Vậy thì tại sao không có
trường hợp xe của Hồng nổ tung mà Hồng lại không thoát chết một
cách kỳ diệu. Người đàn bà mặt nám bỏng đó là ai mà có được
tấm hình của Hồng. Và câu nói: Đôi khi con người ta sống nổi cũng
nhờ biết giữ gìn trọn vẹn những kỷ niệm buồn, có ý nghĩa như
thế nào? Lại bà hàng xóm kia sao cứ khăng khăng bảo nhà người đàn
bả thương tật đó là nhà của Hồng! Một tia sáng lóe lên trong đầu
tôi. Đúng rồi!
Đồng thời cùng lúc với tia chớp lóe ấy, cây cối
nhà cửa trước mắt tôi lao nhào vun vút. Một tiếng thét đâu đó mơ
hồ át đi trong tiếng rít của bánh tàu. Và khi tôi có cảm giác đầu
mình chạm mạnh vào một cái gì đó cứng lắm thì tiếng rít của
bánh tàu bỗng nhiên âm vang và tôi nghe mang máng như tiếng ai gào:
- Đừng xa… đừng xa… đừng xa!
Saigon 15/7/2011
Nguyễn Bá Trình
bichlien101046@yahoo.com.vn
|