Thầy Đỗ Tư Nhơn – tác giả bài viết
TƯỞNG
NHỚ ANH TRẦN VĂN LỮ
Đỗ Tư Nhơn
Mỗi khi tưởng nhớ những người bạn trân quí một thời dưới
mái trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị đã sớm lìa cõi tạm về chốn vĩnh hằng,
lòng tôi không tránh khỏi bồi hồi xúc động. Điều đó khiến tôi tìm lại trong ký ức
từng khuôn mặt, dáng hình, mường tượng từng cử chỉ, nụ cười… nhằm phác thảo bức
chân dung tinh thần của bằng hữu. Tôi đã thắp nén tâm hương mỗi độ xuân về để
thương tiếc các anh Phan Phụng Thạch, Trần Thương Bá, Đặng Sĩ Tịnh, Trần Đình
Bé trong từng giai phẩm Hương Quê Nhà (SG) đặc san Nguyễn Hoàng (Huế).
Giờ đây cùng với những trang Di cảo của anh Trần Văn Lữ, do
người em trai là Trần Thiện Tài công bố, tôi xin gợi lại đôi nét về anh Trần
Văn Lữ (tức Thạch). Anh sinh năm 1942, xuất thân trong một gia đình nhà giáo,
quê nội ở làng Quảng Lượng, Triệu Phong Quảng Trị. Thân mẫu anh thuộc dòng tộc
lớn của làng Thạch Hãn. Khu vườn nhà anh rộng rãi với cây trái sum suê nằm cạnh
con đường thẳng tắp, hai bên là những bức tường gạch dài, chiếc cổng bằng gỗ thường khép kín của một đại
điền chủ giàu có. Con đường này rất đẹp, ban đêm mùi hoa dạ lan hương từ các
sân vườn tỏa ra thơm ngát, phảng phất trên mái tóc những cô gái, chàng trai từng
bước chân chầm chậm thầm thì câu chuyện trăng sao. Những anh em họ Đoàn có truyền
thống học giỏi, mấy chị em họ Trần hiền thục duyên dáng đáng yêu cùng từ con đường
này đến trường Nguyễn Hoàng. Gần đây con đường này được mang tên của ngôi làng
xưa, có biển đề Thạch Hãn, một chứng tích lưu giữ hồn quê giữa phố thị. Hồi đó
tôi học sau anh Trần Văn Lữ hai lớp nên chưa quen anh, chỉ biết cô em gái Dạ
Hương ngày ngày đi học cùng các bạn. Anh theo học ở Viện Hán học - Huế khóa 1960
-1965, đồng thời với Lý Văn Nghiên, Hoàng Đằng, Trần Văn Dật. Lúc mới ra trường
anh dạy ở trung học Quảng Phước- Quảng
Điền tỉnh Thừa Thiên, đến năm 1969 thuyên chuyển về Nguyễn Hoàng. Năm 1970, tôi
về dạy cùng trường, kết bạn với anh và Phan Phụng Thạch. Tính anh rất hiền lành
và khiêm tốn, trên môi thường nở nụ cười, bạn bè và học sinh rất thương mến. Hằng
ngày anh đi qua con đường trước ngõ nhà tôi để đến trường. Chúng tôi trao đổi
cho nhau những sang tác, các tài liệu văn học, tham gia Đặc san xuân 1971, Hội
mùa xuân 1972. Ngoài ra, với bút danh Trần Lãng Tử anh đã góp mặt trên tạp chí
Chim Việt do anh Hồ Thế Vĩnh chủ biên. Còn nhớ những ngày chuẩn bị giai phẩm HỘI
MÙA XUÂN (HMX) chúng tôi đã chia nhau đọc bài của học sinh gởi đến thật phong
phú đa dạng. Các thầy cô Phạm Sữu, Phan Phụng Thạch, Trần Văn Lữ, Văn Chương,
Trần Kiêm Đoàn, Võ Thị Hồng, Nguyễn Thiện… đã
viết bài và giúp trưởng ban biên tập rất nhiều để chọn lựa những tinh
hoa đưa vào vườn thơ văn HMX , đó là những
ngòi bút tài năng đầy triễn vọng như Nguyễn Tùng, Thái Đào, Võ Thị Quỳnh, Nguyễn
Đặng Mừng ,Võ Văn Hoa, Đỗ Huy Sanh, Hoàng Văn Chẩm… mà đến nay ít nhiều đã khẳng
định được vóc dáng của mình qua tác phẩm. Bên cạnh các đồng nghiệp, anh Trần
Văn Lữ gởi đăng bài “Mùa xuân,hoa đào và
ông đồ già trong thơ Vũ Đình Liên”. Hãy
lần giở giai phẩm HMX của 52 năm trước để
nghe thầy giáo văn chương bình thơ thật tâm huyết :
“Nho
học dần dần được thay thế bằng Tây học…Người ta quên ‘ông đồ’, trời đất dường
như ngậm ngùi cho nhân thế Vũ Đình Liên lại bày tỏ niềm thương cảm đầy bâng
khuâng,l ưu luyến, băn khoăn về ‘cái di tích tiều tụy đáng thương một thời tàn’
(Hoài Thanh- Thi nhân VN)
“Năm
nay hoa đào nở/
Không
thấy ông đồ xưa”
“Những
người muôn năm cũ
Hồn
ở đâu bây giờ ?”
Từ ‘Ông đồ già’
của Vũ Đình Liên, anh Trần Văn Lữ đã liên tưởng tới những người đồng nghiệp
trong sự cảm thông sâu sắc và ngậm ngùi xót xa : “Ngày nay trong nhừng năm dài chinh chiến nhiều vị giáo viên, giáo sư
đã âm thầm nằm xuống sau những năm tháng đem hơi sức tâm huyết giảng huấn, truyền
đạt, hy sinh. Có người chết ngay cả lúc
đang làm “sứ mạng” giảng dạy. Họ chết đi không hiểu linh hồn họ có được thảnh thơi
siêu thoát hay còn dật dờ đây đó buồn thương, chán ngán cho thế sự nhân tâm, ‘Hồn
ở đâu bây giờ’. Họ đã chết đi để cho
những mầm non do họ chăm sóc lo lắng, uốn nắn từng ngày, từng giờ sẽ sống vươn
cao nơi xứ mình xứ người”.
Cuối cùng là điều băn khoăn day dứt từ tâm khảm của thầy
Trần Văn Lữ vô cùng chân thành thiết tha, nói hộ cho đồng nghiệp muôn đời:
“Có còn ai nghĩ tưởng về những vị ân sư trẻ trung hay
già nữa không đây ?!?”
Tấm lòng đối với thầy cô NH năm xưa đã được các cựu học
sinh thể hiện trong cuộc sống, trên trang viết tri ân thắm đậm tình nghĩa thầy
trò của báo Nguyễn Hoàng khắp nơi. Xin quý thầy cô anh chị yên lòng về truyền
thống nhân văn cao đẹp ấy của đại gia đình mang tên Chúa Tiên.
Năm 1972, sau hội mùa xuân rộn ràng diễn ra trên sân trường
Nguyễn Hoàng, lửa đạn chiến tranh đã ập vào Quảng Trị,người dân bỏ quê vượt đèo
Hải Vân tỵ nạn, thầy trò bỏ lại ngôi trường
thân yêu. Lúc này hai địa điểm tạm thời để học sinh tiếp tục trau dồi kiến thức
là trại tạm cư Hòa Khánh và Non Nước thuộc Đà Nẵng - Làm sao diễn tả hết nỗi
lòng của con người Quảng Trị khi nhìn về quê nhà xa xôi đang bị bom đạn cày xới.
Không thể vô tư, nhà thơ Trần Lãng Tử, ngày đêm bồn chồn tiếc nhớ từng con đường,
hàng cây, giáo đường, ngôi chùa quán ca fe, góc chợ, hiệu sách, dòng sông, bến
nước, cây cầu… Trong Di cảo của anh Trần Văn Lữ có hai bài viết dạng tùy bút - hồi
ký bây giờ chúng ta đọc lại vẫn không tránh được niềm xúc động dâng lên trong
lòng ! Trước tiên hãy cùng thưởng thức bài tản văn có nhan đề ‘Thương
về Quảng Trị’ được viết vào tháng 7-1972, sau ba tháng lìa xa quê nhà. Này
đây hãy lắng nghe dòng cảm xúc tuôn trào trong từng câu chữ, để cùng ôn lại những
hình ảnh, nơi chốn, kỷ niệm một thời dấu yêu :
“Thế
là tôi xa xứ Quảng thân yêu ba tháng trời. Quảng Trị giờ đây mờ mịt lửa đạn. Đêm
đêm nhìn về hướng Bắc xa xôi , tôi nghe nhiều nhớ thương dâng tràn”…
“Con
đường Quang Trung thẳng tắp trong tháng ngày qua, mưa về sũng nước nhưng sao
láng lẫy thế! Còn đâu những ngày đi ngang qua giáo đường Thạch Hãn, nhìn hàng
cây bàng khoác áo màu xanh đầy hi vọng
vươn cao… Nào đâu những chiều ngồi trong quán Văn, quán Quyên, quán Gió… thả hồn
trong khói thuốc. Bún tai mụ Dư trong đình chợ, bún cô Ba, bún Nông tín ngon thật
là ngon khi chiều chiều ghé lại… Tìm đâu những lúc đứng ở quán sách Tùng Sơn,
Lương Giang…
Con
đường, quán chợ, dòng sông, bến nước,chiếc cầu, cái gì cũng quá quý, cầu cho nó
được còn mãi. Quảng Trị nho nhỏ như một chiếc áo ấm nhưng nó che chở ta tháng
ngày qua trong giá lạnh.
Con
sông Thạch Hãn nước vơi đầy, rồi lần mùa mưa lũ đến, nước đục ngầu lềnh bềnh củi
rều… Khi mùa hạ về, nó trải long cho người ta chiêm ngưỡng. Lòng dân người Quảng
Trị cũng chân chất như dòng sông Thạch Hãn trong mùa nước cạn.
Nhà
thờ La Vang, chùa Sư Nữ, hết rồi những ngày đại hội, rằm mồng một. Chắc giờ đây
chỉ là đống gạch vụn vì chinh chiến.”
Đó là một bài tùy bút có giọng văn ngọt ngào, thấm đẫm
tình yêu quê nhà, dẫn chúng ta về với thị xã Quảng Trị xưa thân thuộc đang quằn
quại đau xót giữa bom đạn mịt mù ! Ước mong được trở về Quảng Trị luôn cháy bỏng
trong tâm hồn mọi người con của Non Mai Sông Hãn, trở thành điệp khúc nguyện cầu
thiêng liêng tha thiết trong từng câu văn ngân vang trong không gian,trong tâm
hồn mọi người :
“Mong
sao được trở về Quảng Trị sớm để nhìn lại thành phố thân yêu, mảnh vườn xanh lá
cây, nương chè, lũy tre, ruộng lúa, chiếc cầu ao loáng nước, mồ mã cha ông.
Bà
con xóm giềng còn bị kẹt, con chó quấn quit bên nhà không hiểu ra sao ?...
Quảng
Trị ơi, ta chờ mong ngày trở về…Ta sẽ trở về cúi hôn mặt đất xứ Quảng của ta. Từng
kỷ niệm sống động trong ta khắc khoải từng ngày từng giờ nếu còn xa Quảng Trị. Nguyễn Hoàng, Bồ Đề, Thánh Tâm, Phước Môn…hãy
chờ dân Quảng Trị về xây dựng lại.
Quảng
Trị ơi, muôn người đang rưng lệ nhớ thương về người.”
Bên cạnh con người nặng tình với quê hương, còn có một
con người luôn gắn bó thân thiết với bạn bè. Cho nên khi cùng vào ở trại tạm cư
Đà Nẳng anh Phan Phụng Thạch đã viết ‘Bài
thơ làm khi say rượu’ đề tặng nhóm bạn chí thân, anh chọn hình ảnh anh Trần
Văn Lữ để khắc họa đầu tiên vì đã hiểu rõ nhau, chia sẻ cùng nhau những buồn
vui trong phận người :
“Buổi
tối tiêu sầu - chai rượu đắng
Tri
âm ! này hãy uống cho say
Lỡ
mai có chết - không ân hận
Vì
đã ngồi chung một chiếu này !
Thằng
bạn chưa già nhưng tóc bạc
Bụng
đầy Kinh Lễ với Kinh Thư
‘Chuyện
đời hư ảo xin mày gác
Không
lẽ mày là Ngũ Tử Tư ?”
Mấy câu thơ trên đã giới thiệu khá rõ nét về người bạn
với lối so sánh có chút đùa tếu khi nhắc đến “Bụng đầy Kinh Lễ với Kinh Thư” “Không lẽ mày là Ngũ Tử Tư”. Bởi
anh Trần Văn Lữ xuất thân từ Viện Hán học, kiến thức về Nho giáo, sách sử xưa
phong phú. Thêm vào đó là giống nhân vật Ngũ Tử Tư “một đêm suy nghĩ tóc bạc trắng”!
Đây là nhóm bạn tham gia Hội Hồng Thập Tự, làm công
tác xã hội từ thiện giúp nhân dân các vùng bị thiên tai, bom đạn cho nên như
anh em ruột thịt một nhà. Trong những ngày sống trong trại tạm cư Đà Nẵng, căn bệnh ác tính của anh Phan Phụng Thạch đến
hồi trầm trọng,bạn bè cùng gia đình thay nhau săn sóc cho đến khi anh từ trần. Trong
đó anh Trần Văn Lữ , Lê Lợi là bằng hữu luôn ở bên cạnh nhà thơ họ Phan, cho
nên anh đã ghi lại những giây phút cuối cùng của GS Phan Phụng Thạch và đọc tại
“Lễ tưởng niệm một năm nhà thơ Phan Phụng Thạch về cõi thiên thu” gồm gia đình,nhà trường, thân hữu,đại diện học sinh. (Tôi được phân
công giới thiệu thơ PPT). Trên tờ giấy A.4 gấp hai, viết trọn bốn mặt anh Phan
Ngọc Bích (em trai PPT) trao cho tôi là bút tích của anh Trần Văn Lữ kể lại từng
chi tiết cuối cùng ở bênh viện Việt Đức của người bạn họ Phan, có đoạn như sau
:
“Rạng
ngày thứ bảy 24-2-1973, độ 4-5 giờ sang chúng tôi tự nhiên thấy bồn chồn xao
xuyến. Từ trại Hòa Long chúng tôi đi bộ
lên trại 5 để rủ Lợi qua anh. Cũng vừa khi đó một thân nhân của anh sang tin
cho hay là anh đang hấp hối. Chúng tôi qua đến nơi thì anh đã yếu lắm. Thở đã
cách khoảng. Đôi mắt đã trăng trắng và kéo sụp mi nhiều. Đêm qua anh đã chuyện
trò cùng thân mẫu anh, không nói ra được nên anh đã lấy sổ ra để bút đàm cùng
bà. Nghẹn ngào đau đớn anh trút hơi thở cuối cùng lúc 7 giờ 25. Tiếng khóc của
thân mẫu anh làm chúng tôi se thắt. Bào đệ của anh, Lợi và tôi cũng không cầm
được sự xúc cảm tột cùng. Sau đó trên chiếc xe HTT của bệnh viện Đức thân mẫu
anh và tôi đưa thi hài anh về trại 5. Ngồi trên xe giữ chiếc băng ca tự nhiên
nước mắt tuôn trào…’’
Trong lễ truy điêu nhà thơ Phan Phụng Thạch, cùng với
bạn bè viết điếu văn, khóc bạn, anh Trần Văn Lữ nghẹn ngào đọc bài thơ Tiếc
thương:
“Đại
dương, sóng vỗ xôn xao
Thạch
ơi mầy chết biết bao đau buồn
Mây
trời vẫn cứ bay luôn
Bóng
mầy đâu nữa những hôm chuyện trò
Nhạc
còn huệ vẫn thơm tho
Trà
đây rượu đó nào giờ cụng ly…
Lá
bay bay mãi im lìm
Mầy
đi, đi biệt như chim tách đàn.
Hết
rồi giây phút liên hoan
Yêu
đời nghe hát dư vang đêm nào.”
Bài thơ thể 6/8 dung dị, ngôn ngữ xưng hô thân mật
không khách sáo, hình ảnh gần gũi đã thể hiện tình bạn chân thành, sự tiếc
thương vô hạn, nỗi mất mát lớn lao !
Để hiểu thêm tấm lòng của anh đối với bạn, chúng ta đọc
hồi ký của anh Hoàng Đằng đăng trong Đặc san
60 NĂM NGUYỄN HOÀNG (- 2012) :
“Trần Văn Lữ rất quan tâm đến bằng hữu. Năm
1974, biết tin tôi sẽ đi vào Sở Học chánh Bình Tuy,Trần Văn Lữ đã sốt sắng tìm
tôi trao lá thư giới thiệu với anh Nguyễn Như Lộc, nguyên Hiệu trưởng trường Quảng
Phước mới vào nhận chức Chánh sự vụ sở này. Trần Văn Lữ hy vọng nơi đất khách
quê người tôi sẽ có người che chở. Sau đó ít lâu, Trần Văn Lữ qua đời. Đến bây
giờ, mỗi lần nghe nhắc đến tên Trần Văn Lữ tim tôi lại rung động, mắt tôi lại
rươm rướm !”
Nhìn lại bức chân dung tinh thần của anh hiện lên qua
lời kể, cùng trang văn câu thơ còn lại
chúng ta đều hiểu được tâm hồn anh giàu tình nghĩa,đa cảm thật đáng trân trọng mến yêu.! Nhưng chắc
không ít bằng hữu và học sinh cũ cảm thấy thiếu sót nếu bài viết này không nói
đến một góc nhỏ của tình yêu trong thơ Trần Lãng Tử. Qua mấy lần giới thiệu thơ
Trần Thương Bá, Phan Phụng Thạch, Triệu Phong Đặng Sĩ Tịnh chúng tôi đã cùng
xao xuyến với nhiều cung bậc, giai âm của ái tình. Nhưng lần nầy lại khác. Có
chút ái ngại khi nói về niềm đau, nỗi buồn, xót xa trong tận cùng của tâm hồn
người bạn khả kính cam chịu trong éo le của tình duyên. Tuy khá thân tình nhưng
tôi cũng tránh né, không hỏi han chuyện riêng tư tế nhị của bạn. Hôm nay đọc những
bài thơ của anh- Trần Lãng Tử trên Chân
Dung Và Kỷ Niệm chúng ta sẽ mở cánh cửa lâu nay khép chặt đó để cảm thông
và chia sẻ những nỗi niềm sâu kín cùng anh. Đây là những bài thơ “có lẽ được
sáng tác sau khi Chúa Trời đã xua đuổi anh ra khỏi căn vườn mang tên Hạnh Phúc
vào năm 1969. Những câu hát đâu đây còn vọng lại ‘Em đang tâm xé nát tim tôi…’ như
lời trong Niệm khúc cuối của Ngô Thụy Miên. Anh sáng tác bài LỜI NÀY CHO EM ‘trong
thời gian bi kịch tình yêu đang gây bão tố quay cuồng. Hai khổ thơ hiện ra sự đối
lập giữa hạnh phúc êm ấm với tan vỡ chia xa, nhưng giọng điệu dường như vẫn du
dương vì tác giả dùng nhiều từ có thanh bằng. Bốn câu đầu là kỷ niệm đẹp, tháng
ngày tay trong tay, tình nồng lên khơi:
“Qua
bao tháng ngày
Trong
đôi vai gầy
Tình
ơi lên khơi
Trong
đôi tay này.”
Lại diễn ra sự khác biệt, mâu thuẫn giữa thiên nhiên
bên ngoài với nội tâm nhà thơ, nắng ấm không sưởi được cõi lòng giá lạnh cô đơn
vì đột nhiên bị xa cách ngàn trùng :
“Nắng
lên khắp trời
Nắng
lên chơi vơi
Nhưng
tôi vẫn gào
Tôi
xa em rồi”
Tiếp theo tiếng
gào thảng thốt đó là trạng thái tâm lý điên dại vì đau khổ trước nghịch cảnh
phũ phàng, tan nát bao thề nguyền. Câu
thơ cuồng nộ như không thể chịu đựng được nữa:
“Xé
nát mặt trời
Xé
cả mặt trăng
Xé
luôn thân nàng
Lòng không ăn năn”
Giờ đây nhà thơ họ Trần đã về cõi vĩnh hằng nhưng còn
gởi lại những câu thơ ám ảnh day dứt về nỗi cô đơn trống trải trên dương thế để
tìm sự đồng cảm và sẻ chia :
“Chết
rồi thịt nát xương tan
Hồn
bơ vơ nữa ai hàn huyên đây ?”
Sống mãi trong lẻ loi, nhà thơ Lãng Tử đã tìm đến cõi
mộng như một liệu pháp, một cách hóa giải nỗi đau buồn nhức nhối không nguôi của
những người bị tình phụ. Trong bài MỘNG gồm có 6 đoản khúc, như từng trang nhật
ký để mình đối thoại với mình, thầm thì an ủi chính bản thân…
“Nhớ
nhung mộng mới trở về
Tỉnh
ra mộng biến não nề tấm thân !
‘Nhớ
em dẫn mộng vào đêm
Cuộc
đời qua mãi như rèm chiêm bao.”
“Ngủ
say mộng lén vào hồn
Niềm
vui phủ mắt. Dậy buồn tâm tư”
“Trở
mình - đêm lạnh - mộng nhiều
Ước
mơ - xa cách - bao điều em ơi”
‘’Người
đây hồn lạc về đâu
Gieo
bao nhung nhớ u sầu mộng tan.”
“Nghĩ
đời kể cũng nực cười
Đêm
đêm là mộng, ngày rời mộng thôi !”
Đến đây chúng ta liên tưởng đến câu chuyện tình giữa Hàn
Mặc Tử và người đẹp Mộng Cầm, với bao lần hẹn hò, say đắm, gắn bó thiết tha thế
nhưng kết cục thật buồn. Khi biết nhà thơ họ Hàn bị bệnh nan y, nàng đành đoạn tình,bước lên xe hoa để cho họ
Hàn đau khổ khôn nguôi có lúc tự nhủ “Làm
sao giết được người trong mộng,để trả thù duyên kiếp phụ phàng !” Nhưng khi
lòng lắng xuống, hồn thơ trở nên dịu dàng chịu đựng ông viết bài “Những giọt lệ”
:
“Họ
đã xa rồi khôn níu lại
Tình
thương chưa đã mến chưa bưa
Người
đi một nửa hồn tôi mất
Một
nửa hồn tôi bỗng dại khờ !”
Và :
“Dẫu
đau đớn vì điều phụ rẫy
Nhưng
mà ta không lấy làm điều
Trăm
năm vẫn một lòng yêu
Và
còn yêu mãi yêu nhiều em ơi”
(Muôn năm sầu thảm)
Bản tính anh Trần Văn Lữ vốn hiền lành, thương người, cam
chịu cho nên tuy những cơn đau trong lòng có khi khiến anh muốn gào thét xé nát
cả vũ trụ nhưng cũng như Hàn thi sĩ anh tìm được sự cân bằng nhờ thi ca và cuộc
sống. Anh góp phần vào sự nghiệp khai nguồn trí tuệ cho thế hệ trẻ, vỗ về an ủi
người dân bị thiên tai, bom đạn qua hoạt động từ thiện cùng bạn bè. Năm 1973
anh khóc thương tiễn nhà thơ Phan Phụng Thạch về nơi an nghỉ cuối cùng trên đồi
cát trắng Non Nước, thì năm sau gia đình, đồng nghiệp và học trò lại đưa anh đến
chỗ nằm bên cạnh bạn thân bao ngày gắn bó. Một thời gian sau, hài cốt của hai
anh về với làng quê của mình bên tổ tiên. Trong dịp cùng thầy Nguyễn Văn Thị về
Bồ Bản thăm mộ thầy Lê Đình Ngân, chúng tôi đã ghé Quảng Lượng thắp hương cho
anh trong khu nghĩa trang của gia đình. Hiện nay, anh Trần Thiện Tài cho biết gần
đây đã cải táng toàn bộ các phần mộ nội thân về Nha Trang. Tôi thầm hứa sẽ vào
viếng anh trong một ngày thuận tiện không xa. Mong anh tha thứ cho tôi vì đã chạm
vào vết thương của những ngày tháng
dương gian xa xưa ấy !
Viết
tại làng Thạch Hãn cuối xuân Giáp Ngọ 2014
Thắp
nén tâm hương tưởng nhớ anh Trần Văn Lữ 50 năm xa đời.
Đỗ Tư Nhơn