Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, February 7, 2012

HÀ NỘI QUA THƠ CỦA NHỮNG THI NHÂN - Phạm Ngọc Thái



      Hà Ni qua thơ ca nhng thi nhân và trong dân gian nhiu không k hết: Cũng ging như bóng trăng trong tâm khm mi người, đm tình và giu hương sc. Tri qua bao thế h, đã tr thành trung tâm t hi chính tr, văn hoá xã hi cùng tình cm ý chí dân tc.

      Cụ Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Thăng Long (1813), xúc động mà hoài cảm về những kỷ niệm xưa:
                Núi Tản, sông Lô vẫn núi sông,
                Bạc đầu còn được thấy Thăng Long...
                Người đẹp thưở xưa nay bế trẻ,
                Bạn chơi thưở nhỏ trở thành ông.
      Từ kỷ niệm riêng tới chung với đất nước, lòng cụ bồi hồi:
                Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
                Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô,
                Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
                Điện mới xô bồ nhịp trúc tơ.
                                    ( Thành Thăng Long )

      Còn nữ sỹ Hồ Xuân Hương lại ngợi ca tiên cảnh ở Tây Hồ:
                Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa...
                Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thờ,
                Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng,
                Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ.
                              ( Chơi Tây Hồ nhớ bạn )

      Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) chơi ở thành Cổ Loa, lòng gợi nhớ tới sự tích thời Thục An Dương Vương và bi tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ:
                Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
                Trải bao gió táp với mưa sa,
                Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc,
                Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
                             ( Chơi thành Cổ Loa )

      Nhà thơ Nguyễn Khuyến dẫu 30 năm xa cách, vắng bóng , mà lòng vẫn khôn nguôi nhớ về hồ Hoàn Kiếm:
                Ba chục năm trời cảnh vắng ta,
                Hồ Gươm dấu cũ đã phai nhoà...
                Chiếc én tìm về quên lối cũ,
                Đàn cò tối đậu lẫn sương mờ.
                              ( Hồ Hoàn Kiếm )

      Vũ Trấn Quốc cùng thời với cụ Cao Bá Quát đã ngợi ca cảnh phường Bích Câu:
                Thành Tây có cảnh Bích Câu,
                Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao,
                Đua chen thu cúc xuân đào,
                Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
                               ( Cảnh Bích Câu )

      Nhưng kinh đô Thăng Long trong tâm khảm các nhà thơ thời trước không chỉ được ngợi ca phong cảnh đẹp, mà còn ghi nhiều dấu ấn chống ngoại xâm - Trần Quang Khải (1241-1294) viết trên đường đưa vua về kinh đô:
                Bến Chương Dương cướp giáo giặc
                Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ.
                                ( Phò tá về kinh )

      Lý Thường Kiệt (1019-1105) - Ông từng làm thơ, vừa để huấn dụ vừa khích lệ lòng tự hào dân tộc của ba quân:
                Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
                Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

      Thời tiền chiến - Hình ảnh Hà Nội cũng rất gắn bó trong nỗi tình thơ của các thi nhân. Họ ghi lại những tâm trạng, những kỷ niệm vui, buồn... trong cuộc đời ở nơi phố phường. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương sau bao năm tháng phiêu bạt trở về phố cũ, lòng ông vẫn xốn xang:
                Ôi chốn ngày xưa vai sánh vai...
                Hồ Gươm sóng lụa bờ tơ liễu...
                Thấp thoáng hè qua đài phượng rụng,
                Lào rào thu muộn lá xoan rơi.
                Nửa kiếp lênh đênh dừng phố cũ,
                Tình thơm mộng nhỏ tóc buông vai.
                                          ( Phố cũ )

      Tản Đà thì mô tả trong đêm ở hồ Tây:
                Hiu hắt hồ Tây chiếc lá rơi
                Đêm thu vằng vặc bóng theo người,
                Mảnh tình xẻ nửa ngây vì nước
                Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
                               ( Tây Hồ vọng nguyệt )

      Trần Huyền Trân thả nỗi niềm về những ngày tháng sống lận đận trong cái túp lều bên hồ Cống Trắng, ở phố Khâm Thiên. Lòng tri kỷ với phố mà vẫn buồn man mác:
                Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
                Chạnh lòng cá nhảy với chim bay,
                Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
                Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
                               ( Mưa đêm lều vó )

      Nhà thơ Thế Lữ đứng giữa đêm giao thừa Hà Nội trước năm 1945, than cho kẻ phải sống lang thang bụi đời:
                Lê gót mòn trên đá,
                Ngẩng đầu trông cơn gió thổi
                Lá vàng rơi lác đác
                Cùng rơi theo loạt nước đọng trên cành,
                Những cây khô đã chết cả mầu xanh...
                Hỡi người bạn! Anh định về đâu đó?
                                 ( Con người vơ vẩn )

      Nhà giáo và cũng là một nhà thơ Vũ Đình Liên lại hoạ cảnh một Ông Đồ thường ngồi bên phố, viết câu đối thuê cho khách:
                Nhưng mỗi năm mỗi vắng,
                Người thuê viết nay đâu?
                Giấy đỏ buồn không thắm,
                Mực đọng trong nghiên sầu.
                                 ( Ông Đồ ) 

   Nguyễn Bính nói về cảnh chia ly của những người trên sân ga:
                Những cuộc chia lìa khởi tự đây...
                Những chiếc khăn mầu thổn thức bay
                Những bàn tay vẫy những bàn tay
                Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
                Buồn ở đâu hơn ở chốn này?
                              ( Những bóng người trên sân ga )

      Nhưng Hà Nội trước kia không phải chỉ có buồn như thế. Nữ thi sỹ Anh Thơ đã mô tả về nỗi lòng rạo rực về một cảnh đêm Hà Nội:
                Căn phòng ta thênh thang hai cửa sổ
                Mây trắng đi qua, sông Hồng thả gió,
                Mỗi năm mùa hè, tắt điện đón trăng khuya...
                               ( Căn phòng ta )

      Thơ ngợi ca về Hà Nội trong hai cuộc kháng chiến cũng rất nhiều. Hồi đánh Pháp, Nguyễn Đình Thi đã không nén nổi xúc động khi đứng giữa Thủ đô đã được giải phóng:
                Hà Nội chiều nay mưa tầm tã
                Ta lại về đây giữa phố xưa...
      Ông reo lên như muốn vỡ tung tim:
                Ta đứng khóc giữa trời mưa hắt
                Leng keng chuông xe điện đổ hồi
                Lòng ta bỗng như dòng suối mát
                Ta đã về đây Hà Nội ơi!
                                   ( Ngày về )

      Những năm đánh Mỹ nhà thơ Nguyễn Mỹ đã viết về cảnh chia ly ở Hà Nội nhưng khác hoàn toàn cảnh sầu thảm xưa kia, bởi vì cuộc chia ly này Hà Nội đã tiễn người đi chiến đấu để giữ nước:
                Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
                Tươi như cánh nhạn lai hồng
                Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
                Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa...
      Và nhà thơ kết luận:
                Như chưa hề có cuộc chia ly!
                              ( Cuộc chia ly màu đỏ )

      Vũ Quần Phương mô tả về Hà Nội trong những ngày tháng chống chiến tranh phá hoại của Giôn Xơn, để sau 12 ngày đêm lịch sử Hà Nội đã trở thành lương tri và phẩm giá loài người:
                Cả Hà Nội rung lên, xe xích chạy rung đường,
                Đêm ấy tôi nghe những em bé qua tôi
                                                  vẫy bàn tay sơ tán.
                Bé lên mười dắt bé lên năm,
                Hà Nội toả đi xa những cô giữ trẻ,
                Bệnh nhân đi và thầy thuốc đi theo.
                Hà Nội nhận vào lòng những cỗ pháo phòng không,
                Những cỗ xe tên lửa.
                                    ( Tâm sự một căn nhà )

      Dù xưa hay nay, chiến tranh và hoà bình, đến thời buổi kinh tế thị trường mở cửa này... Hà Nội quay chóng mặt - Nhưng Thủ đô của chúng ta vẫn mãi là một thành phố trữ tình, như nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
                Em đưa anh vào trong bóng trăng
                Anh đưa em cành liễu thung thăng
                Đường Láng thơm bạc hà kinh giới
                Xuống đây, đi với anh đêm trăng.
                                 ( Đêm trăng đường Láng )

      Thanh Thảo viết:
                Gia đình mình đã sơ tán chưa em,
                Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ
                Có ngập ngừng trước khi mở cửa,
                Lá sấu rơi xúc động bên thềm...
                Gốc sấu này mòn dấu em chờ anh.
                                 ( Dòng chữ cho em )

     Nỗi tình của nhà thơ Tế Hanh thì lại được ông diễn tả đầy thi vị:
                Thế là Hà Nội vắng em...
                Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây?
                                 ( Hà Nội vắng em )

      Tôi cũng có nhiều kỷ niệm về Hà Nội. Dù Hà Nội đã có bao thay đổi, nhưng vẫn mãi mãi là những hồi ức như thưở còn thơ, tựa thể một ngoại ô xưa... Hơi hiu hắt mà thơ mộng, có lá sấu rụng, lá me rơi. Tối tối những đôi trai gái dắt nhau ra tình tự bên hồ. Những tiếng xe điện leng keng thưở xa xưa, những chuyến tàu chạy xình xịch vào ga Hàng Cỏ. Người tiễn kẻ đi xa, người đón kẻ trở về:
                Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng
                Những ngọn đèn ô cửa mùa đông
                Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỷ niệm
                Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp rùa.

                Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự
                Của những đôi trai gái bên bờ...
                Tà áo trắng em bay một thời thiếu nữ
                Theo anh hoài đến tận lúc già nua.

                Hà Nội mới mà như là cổ tích
                Phía nhà ga đoàn tàu đến rồi đi,
                Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi...
                Ai trở về... và ai sắp chia ly?

                Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội
                Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa...
                               (Nghĩ về Hà Nội - Phạm Ngọc Thái)

      Hà Nội mãi mãi sống trong cõi lòng và trái tim tha thiết của tôi!

                                          PNT. 
thai_quanthanh@ymail.com


Ảnh minh họa:
Công nhân Hà Nội thời kỳ chống chiến tranh phá hoại (1972) -  Ảnh:  Xuân Liễu


***
READ MORE - HÀ NỘI QUA THƠ CỦA NHỮNG THI NHÂN - Phạm Ngọc Thái

MẠCH NGUỒN THƠ TỪ NHỮNG CHUYẾN ĐI - Nguyễn Khắc Phước đọc thơ Võ Văn Hoa




    Võ VĂN  HOA là một trong  những cán bộ lãnh đạo ngành giáo dục của huyện Hải Lăng, và cũng là  một nhà báo-nhà thơ nổi tiếng. Anh đã đoạt  nhiều giải thưởng cao về văn học và báo chí . Ngoài các tác phẩm in chung với các tác giả khác, anh có riêng cho mình ba tập thơ, một tài sản không nhỏ so với nhiều cây bút miền Trung khác.

    Thơ của anh được nhiều người hâm mộ tìm đọc, được các tạp chí trân trọng  và được các nhà phê bình đánh giá rất cao. Anh Mai văn Hoan viết: " Thơ Võ Văn Hoa nhẹ nhàng đôn hậu như hoa Dã thảo-loại hoa mà anh yêu thích". Anh Phùng Ngọc Diễn nhận xét: " Ở Võ Văn Hoa, tôi đã thấy anh trải dài kí ức của vài chục năm lăn lộn với nghề, với người...". Anh Trương Đức Minh Tứ, cho rằng thơ Võ Văn Hoa " không điệu đàng, đánh bóng câu chữ; không triết lý rối rắm, đánh đố bạn đọc"; thơ anh " cứ hồn nhiên tuôn chảy, lắng câu trong lòng bạn đọc với một chữ tình: tình yêu gia đình, bạn hữu đồng nghiệp; tình yêu quê hương đất nước...".  Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu bình luận: " Thơ Võ Văn Hoa có cảnh thực, tình thực; và đã có được câu thơ mang được vẻ đẹp, chất men say của ý nghĩ, cảm xúc..."

     Khi đọc thơ Võ văn Hoa, hình như ai cũng tìm thấy  bóng dáng mình , kỷ niệm của mình, hình ảnh của bạn bè thân thương, làng quê trìu mến của mình trong thơ anh.

    Một tập thơ  là một hạt kim cương đa diện, lấp lánh nhiều màu sắc,  mỗi người chỉ thấy được một góc cạnh, thường đã lọc qua lăng kính của tâm hồn mình, nên đôi khi  có những khám phá, thậm chí trái chiều,  mà tác giả không ngờ đến.     
                
    Trước mắt tôi, thơ Võ văn Hoa  dày đặc những chuyến đi-về, trước và sau xe anh là những chiếc giỏ, không phải chở đầy hoa phượng, mà chất đầy bộn bề những cảm xúc, những tấm lòng,  để đêm về trên Tri âm các, anh trải ra trang giấy thành thơ.

  
     Anh Võ văn Hoa thường xuyên có những chuyến đi vì nhiều mục đích khác nhau mà nghề nghiệp đòi hỏi: đi học tập, tham quan; đi hội thảo, họp hành, giao lưu khắp mọi miền tổ quốc. Nhưng có lẽ những chuyến đi quan trọng nhất của anh là những chuyến đi  về nguồn để tỏ lòng nhớ ơn chiến sĩ đã hy sinh cho tổ quốc, để tỏ lòng ngưỡng mộ những vị anh hùng đã đưa đất nước  vựơt qua bão giông. 

" ...đi dọc Trường Sơn / Tìm lại dấu son những ngày khói lửa / Đồng đội em ngả xuống nơi nao ?"   ( Có một nơi nào)

Và anh cũng không quên về Hải Khê thăm quê của nữ Anh hùng liệt sĩ Trần Thị Tâm.


"Hôm qua về thăm chị / Trời hải Khê nắng vàng / Dấu chân ai trên cát / Gió biển lộng thổi tràn!"  (Ở một chân trời quê hương)

    Dù dấu chân chị từng in dấu trên bãi cát nầy đã bị sóng biển xóa nhòa từ lâu nhưng chiến công, sự can đảm, tấm lòng yêu thương đồng đội đồng chí của chị đã ghi vào lịch sử và được người dân Hải Khê nói riêng và dân Quảng Trị nói chung đời đời ngưỡng mộ.

    Sau những chuyến đi về nguồn,  anh bắt đầu những chuyến đi  thăm huyện nhà.

" Tôi đưa em về huyện trủng Hải Lăng / Qua Hải Tân, Hải Hòa, qua Ô Lâu trong xanh...
Tôi sẽ đưa em về La vang, về trằm Trà Lộc.../ Ăn cháo bột Diên Sanh / Về biển trời bao la Mỷ Thủy trong lành...
Tôi sẽ đưa em lên vùng đồi Hải Lâm, Hải Lệ / Bạt ngàn rừng xanh.
Ngược dòng Thác Ma, qua Vực kè , Tân Lý..."

    Trên huyện nhà Hải Lăng không có nơi nào mà anh chưa đến, một việc tưởng giản đơn nhưng ít ai làm được. Bài thơ đã giới thiệu được hầu hết địa danh và phong cảnh hữu tình của huyện nhà. Anh yêu mến  và nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên quê mình, đặc biệt không khí trong lành, đời sống  thanh bình, con người giàu nhân nghĩa, tình cảm nồng nàn.

    Tôi nhớ mang máng trong một truyện ngắn nước ngoài,  chủ nhân  ngôi nhà sau khi đọc bài  quảng cáo rao bán ngôi nhà trong đó người môi giới đã mô tả căn nhà có nhiều vẻ đẹp mà bấy lâu nay họ không nhận ra. Thế rồi sau khi cân nhắc, chủ nhân ngôi nhà quyết định không bán nhà mình nữa và ở lại đó mãi mãi.

    Người dân huyện Hải Lăng có lẽ cũng như thế . Sau khi đọc thơ Võ Văn Hoa,  họ sẽ không ngờ quê mình đẹp thế và  chắc chắn sẽ yêu quê mình nhiều hơn.

    Qua dòng Ô Lâu, anh không quên giai thoại chuyện tình Cây Đa Bến Cộ và bất chợt thốt lên  những vần thơ  có giai điệu mượt mà nhất, duyên dáng nhất, mênh mang nhất.

" Dòng sông Ô Lâu - dòng sông đi về đâu?/ Em đưa tôi chiều tà xế bóng/ Để lòng ai xao động!/ Để lòng ai bâng khuâng!"

    Nhà thơ Hoài Quang Phương khi đọc thơ Võ Văn Hoa đã hình dung một bức tranh có "đôi cánh thơ bay trong bầu trời thất tình với sự phản chiếu của dòng Ô Lâu cô đơn trên nền trời vô định". Hình ảnh  đó giúp ta cảm nhận được " tình yêu của thi nhân ảo huyền, xót xa mà vẫn nuôi hy vọng". Chính giai điệu có sẵn trong bài thơ đã lôi cuốn Phan Thạch Hùng  chọn bài thơ này để phổ nhạc. 

    Qua thơ anh, chúng ta được gặp những  người hết sức dễ  thương.                                                                              

    Thường xuyên là những thầy cô giáo giàu lòng mến trẻ công tác ở vùng xa, có người phải  lội bùn đến lớp như một nông dân.

" Về Càng mới thấy càng khổ nhọc / Lội bùn cô giáo đến trường xa / Yêu thương con trẻ đâu còn nhọc / Những mầm, chồi, nụ biến thành hoa"  (Về Càng)

    Mặc dù phải chịu đựng khó khăn nhưng không phải không có những giờ dạy tốt.

" Giờ học hôm nay, học sinh ngoan hơn / Đã lớn lên từ lời em giảng / Môn sinh vật tưởng chừng khô lắm / Qua lòng em nghe hạt lêm mầm" ( Bông hoa đỏ)
    Ta gặp  được những người bạn  nghèo nhưng vô cùng hiếu khách mừng rỡ tiếp đón anh.

"Lâu lắm anh mới về thăm Càng/ Trong mùa nước nổi vượt đò sang / Bạn đem chai rượu ra mừng đón / Mồi sẵn chung quanh diệc với ngàn..."   ( Về Càng)

                                                         
    Bà con nông dân  cũng sẵn sàng thết đãi anh bằng những món dân dã.
" Người dân làng Rào / Chân chất thật thà , bến quê neo đậu / Lươn, ốc , chuột đồng ... thơm mùi xào nấu / Thết khách miền xa"   ( Làng Rào)

    Bà con ai cũng mến anh, ngay cả chú bé chăn trâu, cứ thấy chú về là vui.

" Lâu chú mới về thăm làng / Gặp cháu nghêu ngao gõ sừng / Tan học, chăn trâu giúp mẹ /  Chú về vui đến sau lưng"                          (Đứa bé chăn trâu đồng làng)

    Nơi anh đến là quê nhà, người anh gặp là bạn bè, đồng nghiệp,  bà con, không ai xa lạ , do đó hạnh phúc của họ cũng chính là hạnh phúc của anh.

" Con đi trên hai bờ kênh êm / Nắng dạt dào nở hoa sóng nước...
Nước đã về rồi - bao nỗi hân hoan...
Con muốn bơi giữa dòng đời đẹp thế!/ Báo tin vui - Ngày-nước-đến  muôn làng"
             ( Nước đã về trên cánh đồng Triệu Hải, mẹ ơi!)

    Vất vả của họ cũng là vất vả của anh.

" Gánh cá chiều chạy từ biển lên / Đòn gánh cong đời mẹ / Người phu già khuân miền dâu bể / Điếu thuốc lào phả khói hoàng hôn"   (Chợ hôm)

    Đi và về đôi khi không khác nhau là mấy, nhưng thường thường, đi có nghĩa là đến nơi mình chưa đến bao giờ, còn về là trở lại nơi mình đã từng ở, do đó người ta thường nói về quê, không ai nói đi quê.

    Quê anh cách nhà không xa lắm, nhưng vì bận công tác, anh không về  thường xuyên. 

    Mỗi lần về đối với anh là trở lại với những kỷ niệm của thời niên thiếu, những mối tình học trò vụng dại.
"Bi chừ ta bỏ cuộc chơi / Ngàn năm thương nhớ về nơi chốn này / Một thời ta đã mê say / Gió xuôi trảng cát cầm tay ru tình"         (Gió về miền xuôi)

    Nói đến trảng cát người ta biết ngay là truông cát Cu Hoan, ngày xưa,  bên kia rú chắn cát là những cồn cát, nơi trẻ con thường leo lên chơi, người trước cầm tay người sau, la ó cười vang, vui hết chỗ nói. Và một lần tình cờ anh được cầm tay một người con gái nào đó, và chỉ thế thôi, mà vẫn để lại nỗi niềm thương nhớ "ngàn năm".

    Thế nhưng rồi người bạn gái thời niên thiếu ấy chẳng biết theo chồng về đâu, chỉ có con bướm vàng ngày nào vẫn  nhởn nhơ bay lượn như cố tình trêu người.

"Về quê cải đã ra ngồng / Có con bướm trắng lượn vồng khoai non / Nhỡ ai tính chuyện vuông tròn / Tháng giêng hoa cải vẫn còn ra hoa"     ( Cải đã ra ngồng)

    Đi-về nói trên theo nghĩa thông thường, tức là phải chuyển dịch từ nơi này đến nơi khác. Tuy nhiên, đôi khi người ta chỉ cần ngồi một chỗ mà cũng có thể đi về. Đó là về với nội tâm để chiêm nghiệm cuộc đời.

" Nửa đêm dậy điểm trà / Điếu đóm cùng lá hoa / Nhận ra mình lão thực / Trong những mùa xuân qua"
....
" Nhận ra đời muôn mặt / Dâu bể cuộc tương phùng"

    Nhận ra không phải để chán chường, mà :" Ta thấy mình vui vậy / Cuộc đời dài có mấy / ‘ Tri túc' bốn mùa xuân"                                             (Độc thoại ở tri âm các)

     Minh Tứ đã viết: Võ Văn Hoa " không thích triết lý rối rắm" . Có lẽ anh không mấy thích ngồi "độc thoại" , mà thích đối thoại, thích giao tiếp , thích những chuyến đi về để gặp gỡ,  giao lưu, trò chuyện. Sống có ý nghĩa là sống cùng, sống với, bởi vì sống thui thủi một mình thì chẳng ai biết mình đang sống. 

    Đi-về với Võ văn Hoa như một nghiệp dĩ, một định mệnh, một cách để làm thăng hoa cuộc sống. Đi về với giỏ xe chất đầy  những tứ thơ mới nảy thơm như những nụ hồng mới nhú là những chuyến đi về nhẹ nhàng như mây; những chuyến đi về trong hạnh phúc không phải chỉ cho mình mà cho biết bao người xung quanh.

    Nếu vì một lý do nào đó mà anh không thể đi được thì lòng anh nóng như lửa đốt, trăn trở như hổ nhớ rừng.

" Cơn mưa đầu mùa xối xả ngoài hiên / Có một người trong tim bão nổi / Tôi đi ngược phía chiều gió thổi / Cõi lòng ơi! Sao dứt thuở đi về!"   ( Bão)

    Đi-về, gặp gỡ , giao lưu, sẻ chia , với anh là cuộc sống, là thơ. Không đi về, không có thơ. Thế nên đừng "dại" mà khuyên can anh, bởi chính vợ anh cũng không can anh nổi.

" Vợ bảo một mai mây trôi bèo dạt / Trong anh còn maĩ nẻo đi về!"
                                                   ( Tản mạn đêm thị trấn)

    Chúng ta chỉ mong anh khỏe  để làm tròn công tác, khỏe để đi-về, để chúng ta còn được mãi đọc những vần thơ "đa mang cảm xúc trữ tình", " chắc mộc, giản dị mà thấm thía" , "nhẹ nhàng đôn hậu như hoa Dã thảo- loại hoa mà anh yêu thích" như các nhà thơ,  nhà văn đồng hương của anh đã nhận xét.



Nguyễn Khắc Phước
ngkhacphuoc@gmail.com


READ MORE - MẠCH NGUỒN THƠ TỪ NHỮNG CHUYẾN ĐI - Nguyễn Khắc Phước đọc thơ Võ Văn Hoa