TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Chúc Mừng Năm Mới
Monday, July 9, 2012
CHUYỆN XÓM NÚI - Truyện ngắn - Trần Duệ
Anh Trần Duệ, nguyên quán xã Gio Sơn, huyện Gio Linh, Quảng Trị hiện thường trú tại thôn Đồi Giang, xã Đức Thuận, huyện Tánh Linh, Bình Thuận .
Anh đang sinh hoạt ở Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Bình Thuận - chuyên
ngành sân khấu. VNQT xin giới thiệu truyện ngắn CHUYỆN XÓM NÚI của anh
Tác giả: TRẦN DUỆ
Không biết vùng đất nơi đây tên gọi là gì nhưng nó ở cách những thành phố lớn xa lắm ! Với con đường ngoằn ngoèo băng qua những cánh rừng cây cao vút, làm cho con người thấy mình quá bé
nhỏ trước thiên nhiên. Những dãy núi hình vòng cung bao quanh vùng đất bằng phẳng và rộng lớn. Một con sông bắt nguồn từ các dòng suối chảy về và băng qua
cánh đồng, tạo cho nơi đây trở thành vùng đất phì nhiêu, cây lá xanh tốt quanh năm. Chiều chiều, hơi đá từ các ngọn núi toả ra làm cho cái thung lũng này như chìm trong sương mù. Cảm giác lành lạnh và cảnh trí u uất đã tạo cho con người nơi đây sự trầm lắng và cam chịu.
Nghe nói đã lâu lắm rồi, có một đoàn người đi tìm trầm. Họ đi suốt mấy tháng trời mà không tìm ra trầm. Họ tìm đường về xuôi bằng cách đi
theo dòng chảy của các con suối. Đoàn người kéo nhau đi
trong sự liêu xiêu,
ngất ngưỡng và đói rét, bệnh hoạn. Họ xuống sông để tắm và cố gắng mò mẫm những con cá để ăn. Trong họ, ai cũng biết rằng muốn về đến nhà phải đi bộ nhiều ngày đường nữa. Tất cả nằm trên bờ sông để nhìn núi, nhìn trời. Lúc này họ mới nghĩ về chính thân phận của họ. Thật là khốn khổ cho kiếp người ngậm ngải tìm trầm ! Lúc nào
trong họ cũng mong một sự đổi đời, bằng cách tìm được một cục trầm thật to để chấm dứt cái nghề khốn nạn này. Nhưng rồi cục gỗ thơm tho màu đen ấy đã cuốn hút gần hết tuổi thanh xuân
của họ nơi chốn rừng sâu núi thẳm. Để rồi cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Lúc này họ đã biết chính con người của họ đã làm khổ cái thân xác của họ. Nếu trở về nhà thì lấy đâu ra tiền để trả nợ, trả lãi cho những nhà giàu đã cho họ vay tiền để trang trải
cho những chuyến đi rừng. Nếu không trả thì chắc chắn vợ con của họ phải ở đợ để gán nợ. Nếu đã ở đợ cho nhà giàu thì bản thân, vợ con của họ sẽ còn khổ hơn con chó nhà chủ. Nếu lên rừng trở lại để tìm cơ may cuối cùng thì
cái đói, cái rét sẽ không buông
tha họ và chắc chắn họ sẽ trở thành loại người rừng mà cha ông họ đã mắc phải.
Vậy là cái xóm
nhỏ nằm ven chân núi đã hình thành. Tất cả cùng nhau khai hoang vùng đất ven sông trước mặt nhà. Những cánh rừng đã lùi xa nơi họ ở, thay vào đó là những ruộng lúa xanh tốt. Dần dà trong
xóm đã có tiếng khóc của trẻ con, tiếng chó sủa vào ban đêm, tiếng gà gáy sáng… Tất cả dù chưa nhiều nhưng cũng đủ để cho những con người sống ở đây đỡ thấy trống vắng hơn và thấy quý nơi họ đang sống.
Ngay vụ thu hoạch đầu tiên, mọi người đã nghĩ ngay tới việc cất lên một ngôi nhà để làm nơi thờ cúng, tạ ơn thần linh của núi rừng đã phù hộ cho những con người sống nơi đây được trúng mùa.
Đêm đêm trong ngôi nhà lợp tranh, vách
nứa này vẫn được đốt lên đống lửa để những người đàn ông tụ tập lại với nhau. Họ kể cho nhau nghe về cuộc đời của mình cùng những kỷ niệm lúc còn ở dưới xuôi. Trong
họ không có ai
biết chữ cả ! Cuộc sống ở đây cứ vậy mà sinh sôi. Không ồn ào náo nhiệt. Không có ai mưu lợi cho riêng
mình. Hầu như ai cũng đều sống bộc bạch với nhau.
Có một buổi sáng, mọi người cùng thắc mắc bởi một chuyện lạ thường là trong xóm lại xuất hiện một vị thầy tu. Dù trên
đầu đã không
còn tóc, mặc áo cà sa,
đi chân đất nhưng nhìn vóc dáng thanh mảnh và nước da trắng đã hiện rõ cho mọi người thấy rằng đây là một người giàu sang, quyền quý chứ không phải là một bậc chân tu. Có
người thắc mắc là không thấy vị thầy tu đi vào nhưng lại có vị thầy tu từ nhà ông Năm
đi ra. Ông Năm nói là thầy vào nhà hồi khuya. Ai cũng biết là ông Năm nói không thật. Ở đây mọi người đều biết đi một mình trong rừng vào ban đêm thì thì chẵng còn ai sống sót với lũ cọp beo. Ông Năm đưa vị thầy tu đến ở trong ngôi
đình của xóm. Ban
đêm nghe tiếng thầy đọc kinh, có người thắc mắc “ đã là thầy tu thì phải có chuông,
có mõ, sao thầy lại không có ”. Hàng ngày thầy vẫn đi làm ruộng với mọi người. Nhìn cách
làm ruộng của thầy không giống người làm ruộng thực thụ. Nếu có người thắc mắc thì ông Năm đều có cách biện hộ cho thầy. Vậy rồi mọi chuyện cũng qua đi, không ồn ào náo nhiệt như cái vốn có của nó.
Vị thầy tu ít nói chuyện, sống âm thầm, lầm lũi trong ngôi đình. Ngôi đình được dọn dẹp sạch đẹp. Mọi người đều vừa lòng. Đêm
khuya khi mọi người đã trở về ngôi nhà của mình thì trong đình lại vang lên tiếng đục gỗ lốc cốc. Mấy ngày sau mọi người mới biết thầy đang tạc tượng Phật. Khi tượng được đặt lên giữa ngôi đình, mọi người mới bàn tán. Người nói mặt Phật buồn quá. Người nói ốm quá. Nhưng ai cũng công nhận là mặt tượng không giống ông Phật ở dưới xuôi.
Bức tượng được ngự trên tòa sen. Những cánh sen được đẻo gọt cẩn thận, nhưng muốn hiểu đó là một bông sen thì người nhìn phải tưởng tượng ra. Những cánh sen nhìn từ phía trước lại nhỏ hơn những cánh sen ở phía sau và cánh cao, cánh thấp không đều nhau, tạo nên một sự sắp xếp lộn xộn, trái ngược với những cánh sen mà thiên nhiên đã tạo ra. Đức Phật to khoảng đứa bé ba tuổi, ngồi kiết già, hai tay chắp lại phía trước ngực. Chiếc áo cà sa mặc chéo sang một bên, còn một bên để trần lộ rõ xương vai và từng dãy xương sườn biểu hiện sự khắc khổ, chịu đựng. Khuôn mặt Đức Phật nghiêm nghị, trầm tư, yên lắng … như một sự bằng lòng với ngoại cảnh. Người xem tượng khó hình dung được đức Phật có còn tóc hay không, bởi do những vết đẽo nham nhở tạo nên những đường gợn sóng không
đều trên đầu tượng Phật. Mọi người đều biểu hiện sự thông cảm với điều kiện của thầy.
Có tượng Phật, có thầy trụ trì, ngôi
đình mặc nhiên trở thành ngôi chùa mà chính những người làm ra nó chưa bao giờ nghĩ tới. Đêm đêm mọi người đều nghe thầy đọc kinh. Nghe
mãi thành thuộc. Ngày làm
ruộng, đêm lên
chùa đọc kinh, vậy là họ trở thành phật tử hồi nào không
hay, không biết. Có người thắc mắc “ kinh nhà
Phật thì nhiều, tại sao thầy chỉ thuộc kinh cầu an và cầu siêu ?. Nghe vậy có người trả lời “Sống thì
cầu an, chết thì cầu siêu chứ biết cầu gì cho nhiều ”. Tất cả cười ồ lên trong
không khí thoải mái, vô tư.
Một hôm có một toán người tìm trầm, họ đến và ở lại chùa ăn chay, nằm đất ba ngày đêm. Khoảng hai tháng sau, họ đưa lên chùa một cái chuông đồng to bằng thùng gánh
nước, nặng chừng hai người khiêng. Họ nói là nhờ Phật phù hộ mà họ tìm gặp một cục kỳ nam, cho nên họ tặng chùa để tạ lễ theo đúng lời khấn nguyện của họ. Mọi người vui vẻ nhận chiếc chuông. Không ai tham gia vào những câu chuyện sặc mùi tiền bạc của người đối diện.
Tiếng chuông
chùa làm cho cái xóm nhỏ vui hẳn lên. Núi rừng chung quanh, muông thú chung quanh dường như im lặng hơn mỗi khi tiếng chuông được cất lên. Buổi sáng khi mọi người đang ngủ say thì tiếng chuông được dóng lên từng hồi như giục giã, réo gọi, vậy là ai cũng
thức dậy để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Ngày tháng
trôi qua, tiếng chuông vẫn đều đặn ngân vang,
chính xác hơn tiếng gà gáy, trung thành như người lính đứng gác. Tiếng chuông vào ban đêm nghe khác hơn buổi sáng. Chỉ có những người sống nơi đây mới hiểu được điều đó.
Năm tháng qua đi, chiến tranh qua
đi. Mọi người ở đây đã làm hết sức mình để bảo vệ vùng quê mới của họ. Xóm núi năm
xưa bây giờ đã thay đổi. Có chợ đông vui, đường sá thông thương, rừng chỉ còn ở trên núi. Ngôi chùa bằng gỗ, lợp tranh chỉ còn trong trí nhớ của những người lớn tuổi, thay vào đó là một ngôi chùa được xây dựng bề thế. Riêng vị sư già thì vẫn đầy bí ẩn và vẫn trầm tư như đang thả hồn vào một cõi xa vắng nào đó. Tiếng chuông vẫn được cất lên đều đặn. Khúc ngân
của chuông vào
mỗi buổi chiều như kéo dài hơn, nghe như một điệu nhạc trầm buồn. Dù không lý giải được nhưng ai cũng hiểu mỗi khi nghe thầy đánh chuông, lòng có buồn thì cũng thấy vui, lúc quá vui thì cũng làm cho lòng người như lắng lại.
Một hôm trong chùa xuất hiện một người phụ nữ có vóc dáng
cao to, đầy đặn, trên người đeo nhiều nữ trang đắt tiền. Người phụ nữ khóc. Mặt thầy không biểu hiện một nét buồn vui nào cả. Thì ra người đàn bà đẹp và sang trọng này chính là con gái của thầy. Vậy là những điều bí ẩn đã được hé mở. Hồi ở dưới xuôi thầy đã có vợ và một người con gái. Vợ thầy là một người phụ nữ đẹp và lanh lợi. Gia đình thầy giàu có, ruộng đất rất nhiều. Nếu không có
trí nhớ tốt thì không thể nhớ hết những người làm công
trong nhà. Không có ai biết được thầy đã học hết lớp mấy, nhiều người chỉ nghe nói được rằng từ nhỏ đến lúc trưởng thành, thầy chỉ biết đi học. Rồi gia đình giàu sang, quyền quý đó thật sự tan nát kể từ khi người chồng tận mắt trông thấy vợ của mình đang nằm bên cạnh một người đàn ông khác. Lúc đó người chồng đã đã bộc lộ hết bản năng ích kỷ của người đàn ông. Vợ chết. Người chồng tìm lên rừng để gặp ông Năm là người đầy tớ lâu năm trong nhà của mình.
Không hiểu sao từ hồi thầy trở về thành phố để thăm đứa con gái của mình thì tiếng chuông được đánh lên nghe khác hơn. Nó không còn ngân vang, kéo dài như để đưa hồn người nghe vào cõi sâu lắng của tâm linh,
hay dẫn dắt, níu kéo sự tham dục trở về với nhân bản. Tiếng chuông nghe như đứt quãng từng hồi, có lúc lại hối thúc, dứt khoát như tiếng trống trận. Người con gái của thầy trở lại thăm và nói với thầy cùng các phật tử là xin được cúng dường cho chùa một tượng Phật to và một cái đại hồng chung để thay thế cho những cái đã cũ. Thầy im lặng. Có người nói: “ Thầy xem thường lòng tốt của đạo hữu”, người nói: “ Thầy không lo việc xây dựng chùa”.
Đã hai đêm rồi không nghe
tiếng chuông
chùa được đánh lên.
Đây là một điều không bình thường. Nhiều người chạy lên chùa tìm thầy. Khung cảnh chùa vẫn vắng lặng như mọi ngày. Thầy đang quỳ trước chánh điện, một tay xá phía
trước ngực, một tay để tựa trên quyển kinh. Nhìn vết máu chạy dài từ miệng xuống và đông cứng lại trên trên chiếc áo cà sa, mọi người đều biết là không còn sống. Ông Năm ân hận là mấy hôm nay bị đau lưng nên ông không lên chùa. Đứa cháu gái sắp được chồng cưới phải bỏ đi làm ruộng để thay ông làm
các việc chẳng tính công ở chùa. Cô bé vừa khóc vừa kể “ Trưa, chiều con đều đưa cơm lên cho thầy và con vẫn thấy thầy quỳ như vậy. Con nghĩ
là thầy bận xem kinh”. Có người hỏi lại “ Sao con
không nhắc thầy ăn cơm”. Cô bé lau nước mắt “ Sợ thầy giật mình nên
con không dám gọi”. Bây giờ thì ai cũng hiểu thầy đã đến sống và đi khỏi xóm núi này
đều là sự lặng lẽ, khó hiểu…
Nhiều người đến để tiễn thầy ra an nghỉ ở một góc rừng, nơi có những cây gỗ quý còn sót
lại của thuở khai hoang. Riêng con gái của thầy thì không
có mặt. Đúng là cô
ta không biết, do không
có ai biết nơi ở của cô để báo tin.
Hàng ngày tiếng chuông lại được ngân vang dội vào vách núi./
TRẦN DUỆ
ĐT: 0989.870.698
ĐT: 0989.870.698
Subscribe to:
Posts (Atom)