Phong
Kiều Dạ Bạc
*Phiếm Luận 2
CHU VƯƠNG MIỆN
CHU VƯƠNG MIỆN
Bài
thơ “Phong Kiều dạ bạc” từ thời nhà Trung Đường, từ thế kỷ thứ 9 đến bây giờ,
tròm trèm trên 12 thế kỷ, vì là bài thơ tuyệt tác cuả Thi hào Trương Kế, nên có
nhiều giai thoại văn chương, nhiều ý kiến cuả học giả Trung Quốc và Việt Nam. Ngày
trước thì bài thơ được cắt nghiã và hiểu ngắn gọn như thế này, nhưng vài trăm
năm sau thì lại được cắt nghiã và hiểu theo nghiã khác, rồi mơí đây lại hiểu
theo cách khác nữa. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những giả thuyết của các học giả
Trung Quốc và Việt Nam cho thêm phần phong phú, còn chuyện đúng hoặc là sai thì
giờ này cũng chưa rõ ràng minh bạch. Cũng không phải là toán học 1 cộng 1 là 2,
xin được ghi ra đây bài thơ ‘ “Phong kiều dạ bạc”:
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô
thành ngoại Hàn San tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền
[Trương
Kế thơì Trung Đường]
Vấn
đề đặt ra chỉ có hai từ “Ô Đề” và “Sầu Miên” thì có thảo luận, trao đổi, tranh
cãi, ngoài ra thì cũng vẫn y như cũ.
-Từ
xưa cho đến hôì tiền chiến [ trước năm 1945] qua bản dịch cuả cụ Tản Đà thì hai
câu thơ đầu được dịch là “Trăng tà tiếng quạ kêu sương, lửa chài cây bến sầu
riêng giấc hồ”, danh từ “ô đề “được chuyển dịch là” tiếng quạ kêu” từ sầu miên
là “giấc hồ”.
-Sau
năm 1954, qua sự tham khảo tại chỗ cuả học giả, giáo sư Nhật Bản và tân học giả
Trung Quốc thì được hiểu như sau:
-Ô Đề
là thôn Ô Đề, và Sầu Miên là Sầu Miên Sơn, có nghiã ngày xưa chỉ là âm thanh cuả
con quạ kêu, và giấc mơ thì bây giờ trở thành điạ danh thôn Ô Đề và Nuí Sầu
Miên, xin đựợc ghi lại cho rõ nghĩa qua tác phẩm cuả tác giả Trịnh Hảo Tâm “Ký
Sự Du Lịch Trung Quốc” và “8 ngày ở Trung Quốc” cuả tác giả Thái Quốc Mưu, thì
vị trí cuả chuà Hàn San tọạ lạc ngay thị trấn Cầu Phong [tức Phong Kiều] thuộc
thành CôTô, Tô Châu, Giang Tô cũ. Thị trấn này nằm trên đất liền ở giữa hai
nhánh sông đào cuả kinh Đại Vận Hà [kinh này dài trên ngàn dậm nối từ Hoàng Hà
đến Dương tử Giang], bên phải là cây cầu Phong kiều, đi qua cây cầu này là dẫy
cây phong, rồi đến thành Cô Tô cuả nứớc Ngô [tức Ngô Phù Sai], đi tiếp khoảng 5
dậm nữa là phố Tô Châu. Còn phiá bên trái là qua Giang Thôn Kiều, qua cầu này đến
một thôn trang goị là Thôn Kiều, mà ngày xưa có lẽ là Thôn Ô Đề? Qua một bài có
tính cách tổng hợp bài thơ “phong kiều dạ bạc” của một tác giả tôi quên mất tên
đăng trên nguyệt san văn học Khơỉ Hành cuả thi sĩ Viên Linh, có chụp mấy chiếc
hình cây cầu và nữ thi sĩ Thu Nhi đứng trên cây cầu, ngay thành cầu Phong Kiều,
nội dung bài này như sau:
-Bài
thơ cuả Thi hào Trương Kế quá tuyệt vời, nên ngươì đời sau vì ngưỡng mộ tiên
sinh, nên từ Ô Đề vốn là tiếng quạ kêu, được mang đặt tên cho cái xóm bên kia cầu
Giang Kiều la Xóm Ô Đề, đại loại như ở Lâm An có xóm Ngưu Gia Thôn, và giấc “sầu
miên” thành ra ngọn núi Sầu Miên, câu sau này không chuẩn vì tính từ chuà Hàn
San là trọng tâm, thì đi về bốn phiá Đông Tây nam bắc khoảng 50 dậm đường đất [gần
100 cây số] thì không có một ngọn nuí nào cả.
Nhìn
vào trong bản đồ Trung Quốc, Hàn San Tự thuộc Cô Tô, ngoại thành Tô Châu, thuộc
tỉnh Giang Tô vốn là Nam Kinh, vốn xưa kia là kinh đô nước Ngô Việt, còn Hàng
Châu tức tỉnh Triết Giang [Chiết Giang] ở dưới là vùng đất thuộc nước Việt cuả
Việt Vương Câu Tiễn, ở giưã hai tỉnh này về phiá bên trái [tức là phiá Tây] là
tỉnh An Huy và Giang Tây [vốn là đất cuả nước Sở cũ].
*
Bây
giờ xin bàn thêm về chữ Tàu tiếng Tàu, chỉ rất sơ sài mà thôi, không dám đi xa
vì không có chuyên môn, và tuyệt đối cũng không dám lạm bàn về chuyện dịch thơ
Đường, ngườì Hán tộc, chỉ chiếm đa số ở Trung Quốc, ngoài ra còn có ngươi Hồi, người
Tạng, người Mông, người Mãn. Ngay người Hán cũng chia ra là ngườì Quảng, người
Tiều, ngươì Hẹ.... Trước thời nhà Tần, thì biên giơí cuả ngươì Hán chỉ giơí hạn
ở bên này và bên kia sông Hoàng Hà, người Hán gọi Hà là sông, trồng lúa mì, cao
lương trên đồi khô, đất cao, nên chuyên nuôi bò “gọi là Hoàng Ngưu”, giã lúa mì
ra bột, làm bánh ăn gọi là bánh bao, dào cháo quẩy, lúc đó không ăn cơm, sau đó
thì dân Hán phát triển, sinh sôi nẩy nở, chiếm đất về phương Nam cuả dân Bách
Việt. Dân Bách Việt chuyên sống về nông nghiệp, trồng lúa nước nên dùng trâu, ở
vào hai bên Dương Tử Giang là một bên Hoa Hạ, một bên Hoa Nam, không có dùng bò
để cày cấy, mà dùng trâu, đó là vùng An Huy, Giang Tô, Chiết Giang, Giang Tây.
Phuớc Kiến và Lưỡng Quảng, khi chiếm xong những vùng đất này, thì ngươì Hán vẫn
dùng chữ Giang là sông như cũ, còn con trâu thì goị là thuỷ ngưu, có nơi goị là
thanh ngưu, thuỷ không có nghiã là nước, và thanh cũng không có nghiã là xanh,
chẳng qua là tiếng Việt cũng chia ra tiếng Nam, tiếng Bắc thế thôi.
Bây
giờ nói cho gọn ghẽ và dễ hiểu, là ngay tỉnh Quảng Ngãi, có một điạ danh là
Châu Ổ, tên này là tên Chàm cũ, còn tên Việt là quận Bình Sơn, nhưng ai đi qua
đây, ngoại trừ du khách, và những người không biết thì mơí kêu là quận Bình
Sơn, ngoài ra là Châu Ổ cả. Cũng như thành phố Hồ Chí Minh là chỉ có ở trên giấy
tờ hành chánh mà thôi, thực tế vẫn là thành phố Sài Gòn, nên không có gì lấy
làm lạ là chốn Hàng Châu, Triết Giang vốn là nước Việt cũ, goị từ “Minh Nguyệt“
là “chim Minh Nguyệt” và “Hoàng Khuyển” là “con sâu Hoàng Khuyển” vì vùng này
là toàn ngươì Việt, còn Hàn San Tự ở Cô Tô là ngoại thành Tô Châu ngày trước là
kinh đô nước Ngô [Ngô Phù Sai] cũng là dân Bách Việt, thì những danh từ [hoặc địa
danh] đã có sẵn chưa hẳn là do ngươì Hán đặt ra. Biết đâu những danh từ đó đã
có sẵn từ hồi xửa hồi xưa cuả ngươì Bách
Việt còn truyền lại thành ra từ “Ô Đề”, từ “Sầu Miên”, chúng ta nếu có thì giờ
thì tra cưú lại sách vở, cho rõ ràng hơn vì chỉ sau đó 100 năm, thơì Ngũ Đại,
thì nước Việt, và nước Ngô lại trung hưng tồn tại thêm 100 năm nưã, mới bị nhà
Tống của Triệu Khuông Dẫn thống nhất.
Và để
kết thúc bài viết ngắn gọn này, chúng tôi thiết nghĩ thi ca vốn bay bổng như
sương khoí, nặng về cảm, không nặng về lý, thành ra có rất nhiều ngoại lệ, ngoại
hạng, chả hạn :
-Gió
đưa cành trúc la đà
Hồi
chuông Trấn Võ canh gà Thọ Xương
hoặc
:
-Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền
Gà
chỉ gáy vào ban sáng, ban ngày đôi khi cũng có gáy vu vơ chút đỉnh, nhưng thi
sĩ đôi khi viết “canh gà” cũng chả sao, và chuông chuà chỉ thỉnh vào ban ngày,
vào những ngày đại lễ, nhưng vì hai thầy trò sư cụ, làm thơ bí vận mãi đến
khuya mới thông, làm đủ bốn câu thơ, nên sư cụ sai đồ đệ thỉnh chuông để mừng
công, và hai thầy trò đều làm xong mỗi ngươì một bài thơ thì thỉnh một hồi
chuông ban đêm để tạ ơn Trời Phật cũng không sao.
Chu
Vương Miện