Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, December 31, 2022

NGOẠI CỦA CON - Bút ký - Nguyễn Đại Duẫn

 

Vườn mướp nhà ngoại.

NGOẠI CỦA CON

                                                     Bút ký

 

Một ngày đầu xuân, gia đình tôi cùng về thăm ngoại của con. Tiếng chim ríu ran trong bụi tre trước vườn nhà ngoại như báo hiệu một ngày đẹp trời. Nhà ngoại của con nằm bên dòng sông Long Đạị. Sau mỗi mùa oằn mình với con lũ thường niên, dòng sông giờ đây trở nên trong xanh, hiền hòa. Bóng cây phượng vĩ đầu ngõ đang rủ mái đầu xanh xuống dòng sông, như đang khoe dáng, khoe sắc với thiên nhiên. Một bức tranh thủy mặc nơi thôn quê lung linh trong gió.

Quê ngoại của con là làng Long Đại, xã Hiền Ninh. Phía Nam làng là dòng sông Long Đại uốn lượn chạy dài từ đầu Tây làng đến cuối Đông làng. Phía Tây làng là con đường 15A cũ (nay được nối với đường Hồ Chí Minh), phía Bắc làng là cánh đồng bát ngát lúa, ngô và những giàn mướp đắng ngút ngắt.  Sông Long Đại bắt nguồn từ dãy Trường Sơn và chảy theo hướng Đông Bắc tạo ra một đồng bằng màu mỡ hẹp bởi các bờ của nó. Sau đó, nó gặp sông Kiến Giang và cùng nhau hợp thành sông Nhật Lệ đỗ ra Biển Đông tại Đồng Hới. Bắc qua sông Long Đại là chiếc cầu Long Đại Đông Trường Sơn chạy song hành cùng cầu đường sắt Thống Nhất với chiều dài 178m (dài nhất Đông Nam Á những năm 70 của thế kỷ XX) như chiếc cần cẩu khổng lồ nối đôi bờ Nam Bắc. Bến phà Long Đại xưa là một trong 7 di tích lịch sử cấp Quốc gia của huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Đền tưởng niệm liệt sĩ Trường Sơn bến phà Long Đại cũng là một điểm đến trên hành trình thăm lại chiến trường xưa của các Cựu chiến binh, Cựu thanh niên xung phong. Ngày nay là một điểm tham quan du lịch khá nổi tiếng và mang nhiều ý nghĩa của tỉnh Quảng Bình. Làng Long Đại trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước đã ghi dấu những chiến công hào hùng, hiển hách của quân và dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc đầy cam go và ác liệt.

Ông, bà, cháu, chắt gặp nhau tíu tít hàn huyên hỏi thăm sức khỏe, làm ăn sau những biến cố về dịch bệnh, thiên tai. Bà cố dắt mấy đứa chắt ra vườn ngắm những luống rau đẫm sương đang non xanh, mơn mởn. Tuy đã nhiều tuổi nhưng bà vẫn còn cắm cúi vườn tược, vui thú tuổi già. Vườn nhà trồng đủ thứ cây. Nào là chuối, đu đủ, rau cải, đậu cô ve, rau mùi… mỗi thứ một ít cũng đủ dùng. Thích nhất là luống cà chua đang xòe những nụ hoa vàng năm cánh, những quả tí xíu như viên bi chai đeo lủng lẳng trên cành trong thật vui mắt.

Ông nhạc phụ lấy tấm chiếu nhựa trải  giữa nhà rồi bày mâm rượu. Hai bố con nhâm nhi với những câu chuyện đầu năm mới. Rồi như có ít hơi men, những kỉ niệm về cuộc đời của ông bà, kỷ niệm miền quê một thời lửa đạn ùa về.  

Nhạc phụ tôi là ông Phan Công Nông  năm nay đã 93 tuổi và nhạc mẫu là bà Trần Thị Nguýt  ở tuổi 94. Tuy  tuổi cao nhưng ông bà còn khỏe mạnh và minh mẫn. Nhạc phụ cho biết, có được sức khỏe như bây giờ là do lao động, rèn luyện hợp lí, ăn uống điều độ, tinh thần sảng khoái vui vẻ và không hút thuốc lá.

          Thời trẻ, cha mẹ mất sớm nên ông bà phải vất vả kiếm sống. Bao nhiêu công việc nặng nhọc đều đổ lên vai của người anh cả, chị dâu trưởng. Hai người đã bươn chải với cuộc sống lên rừng xuống biển, trốn tránh bom đạn của giặc Pháp, nuôi 5 người em ăn học rồi dựng vợ, gả chồng cho họ trong hoàn cảnh thiếu đói quanh năm. Chưa hết, ông bà lại gồng mình nuôi bảy người con trong chiến tranh ác liệt của giặc Mỹ.

          Hai bố con đang chuyện trò say sưa, nhạc mẫu bưng lên những dĩa thức ăn đang bốc hơi, thơm lừng. Nhìn mâm đồ nhậu, cầm li rượu trên tay, nhạc phụ nói: “Hôm nay có được cuộc sống yên bình, có những bữa ăn ngon mà lòng ngậm ngùi không quên những năm tháng cơ hàn đã qua. Các con cần phải biết để ghi lòng tạc dạ với những gian nan, vất vả, tình thương yêu  của ba mẹ, để biết vươn lên trong cuộc sống, sánh vai cùng anh em bạn bè, để ba mẹ vui lòng”. Rồi giọng ông lắng xuống: “Lúc ba còn nhỏ được cha mạ nuôi ăn học, rước thầy về trong nhà dạy học cho đến khi đi thi yếu lược (tương đương lớp 1-3 bây giờ). Và sau đó học đến bậc “École primaire” (tương đương bậc tiểu học bây giờ), taị Trường Xuân Dục (xã Xuân Ninh). Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền về tay Nhân dân, niềm vui sướng trào dâng trong lòng mỗi người dân. Tháng 7 năm 1946, ba đi thi Primaire tại Đồng Hới để học lên. Nhưng niềm vui chưa được bao lâu thì tháng 3/1947 giặc Pháp trở lại đánh chiếm Đồng Hới các trường, lớp đều giải tán nên ba trở lại nhà. Tại quê nhà, giặc Pháp về đóng đồn ở thôn Trần Xá xã Hàm Ninh và lô cốt ở Đuồi Diện thôn Cổ Hiền, xã Hiền Ninh. Ngày đêm chúng đi càn quyét bắn giết người khả nghi Việt Minh, vơ vét của cải. Làng xóm tiêu điều, xơ xác.  Lúc này bà con làng xóm có người phải vào rừng sâu, có nhà phải sơ tán hai bên bờ sông dựa vào sườn núi. Có gia đình bồng bế con cháu, gồng gánh lên Trường Sơn để lánh nạn. Ông nội các con sắp xếp đưa cả nhà lên Khe Lùi, Bãi Cơm, còn ông ở nhà một mình bám vườn, coi sóc nhà cửa. Ngày 29 tháng 3 năm 1947(mồng 7 tháng 2 âm lịch), địch đi càn sang làng ta. Tiếng súng, lựu đạn nổ ì oàng cả xóm. Trên trời máy bay oanh tạc thả bom. Chúng nghi ngờ Việt Minh trên chiến khu về làng. Ông nội lúc đó không tránh kịp bị thương, chạy theo giao thông hào xuống xóm Ngư Thủy (xóm Sáo), rồi nằm cạnh hầm trú ẩn và qua đời (hưởng dương 53 tuổi- 1894 -1947).

          Năm 1949, sau khi mãn tang ông nội, bà nội quyết tâm cho ba đi học lên bậc trung học để mong làm nên sự nghiệp.  Lúc bấy giờ ở huyện Tuyên Hóa có Trường Phan Bội Châu mới mở. Anh rể là Ngô Cáo, (chồng chị thứ hai) góp ý nên ra học ở đó. Ba cùng với một số người trong huyện đi học nên thuê voi người Vân Kiều chở hàng hóa, tư trang còn người lẽo đẽo đi bộ hết 9 ngày. Đường rừng núi âm u, đèo dốc. Vượt qua Cửa Tràng (xã Trường Sơn), ra Cà Ròong (Bố Trach), về Đồng Lê đến Minh Cầm (Tuyên Hóa) để học. Lúc đó còn nhỏ, nhớ nhà cuộc sống vất vả, ăn nhờ ở đậu nhưng ba vẫn cố gắng vượt qua, chăm chỉ học hành. Nhưng rồi được tin ở Hoa Thủy, Mỹ Đức huyện Lệ Thủy mở trường, thấy thuận tiện nên ba xin về đó để học cho gần nhà. Khi về đến xã Trường Sơn hôm trước, hôm sau các anh liên lạc ở Bến Lùi lên báo tin bà nội ốm nặng đã đưa lên bệnh viện dã chiến khu ở chiến khu của huyện đóng tạ Bến Tiêm (xã Trường Sơn). Ngày sau lại được tin bà đã mất đưa về Kim Sen (xã Trường Xuân) chôn cất. Đó là năm 1949. Khi ba và o thứ hai (là Phan Thị Trong) về dến Kim Sen thì không thấy ai cả, chỉ thấy nấm mồ lù lù đất mới. Trời đất như sụp đổ. Hai chị em ôm nhau khóc ròng rã. Cha đã mất khi em út còn trong bụng mạ, chừ em mới được 2 tuổi mạ cũng vội vã ra đi không lời dặn dò, không lời từ biệt. Trời ơi! Một đàn em thơ nhỏ dại biết sống sao đây? Ba đành bỏ học, chịu khó, chịu khổ dắt díu một đàn em 5 người nhỏ dại cùng nhau tập tành làm ăn”. Kể đến đây ông cầm ly rượu nhấp ngụm nhỏ như giấu đi giọt nước mắt đang chực rơi xuống.

Mẹ vợ ngồi bên lắng nghe, giọng xúc động, thêm vào: “Khổ lắm con à. Năm 1949, Việt Minh phát động phong trào về đồng bằng để hoạt động nắm thời cơ diệt địch, tề điệp. Bọn giặc Pháp cùng ngụy quân, tề điệp theo dõi tìm cách quấy phá. Chúng đưa ca nô cho quân đổ bộ lên làng ta bắn giết trâu bò, cướp của. Cùng năm đó chúng cho lính đốt hết nhà cửa nhằm làm mất chỗ dựa của Việt Minh. Làng bị cháy rụi không sót nhà nào. Người dân phải gồng gánh, dắt díu nhau đi trốn, đi sơ tán lên Bến Huyện dọc sông Long Đại, làm lán trại sau đuồi khe. Cái đói cái rét, bệnh tật luôn đeo bám vào cuộc sống của người dân lúc bấy giờ. Mẹ lúc đó cũng tham gia dân quân,du kích, nấu cơm cho bộ đội, làm tiếp tế, cứu thương…”

          Khi bình tĩnh trở lại, bố vợ kể tiếp: “Khi ba đến tuổi trưởng thành, ba tham gia lực lượng dân quân du kích. Luyện tập, canh gác, học mật mã để liên lạc với bộ đội. Rồi tham gia Thanh niên cứu quốc, tham gia tổ thông tin, địch vận, dạy bình dân học vụ. Ngày sản xuất, tối dùng loa bằng mo cau quấn lại hay loa bằng tôn, kêu gọi lính ngụy ở đồn Trần Xá, ở lô cốt Đuồi Diện quay súng đánh Pháp về với Nhân dân.

          Thấy hoàn cảnh khó khăn, các em còn nhỏ dại mà ba phải đi công tác thường xuyên nên mọi người động viên ba lấy vợ để lo toan cuộc sống cho gia đình. Năm 1952, ba cưới vợ. Thế nhưng chưa được mấy tháng, vợ đau ốm qua đời, nỗi mất mát này chồng lên nỗi đau khác. Rồi o Nại (em kế ba) đi lấy chồng, gia đình lại càng neo người làm. Cuộc sống túng quẩn làm cho ba không biết nghĩ cách nào hơn. Mọi người động viên lấy vợ khác để gánh vác việc gia đình, cho ba rảnh rang lo việc đoàn thể. Thế là “rổ rá cạp lại”, ba kết hôn với mẹ con đây mặc dù bà lớn tuổi hơn. Đó là vào một ngày đẹp trời tháng 11 năm 1954, khi giặc Pháp đã rút quân khỏi Quảng Bình. Lúc đó ba với mẹ cùng có hoàn cảnh giống nhau. Mẹ con cũng là người thiếu thốn tình cảm, gia đình cũng khổ cực. Ba mẹ đã thông cảm hoàn cảnh của nhau về chung một nhà, kề vai sát cánh vượt qua bao khó khăn, tủi hờn, lo toan gánh vác nuôi em, nuôi con trưởng thành đến bây giờ.

          Sau hòa bình lập lại, ba mẹ vào hợp tác xã (HTX), làm ăn tập thể. Năm 1961, nhờ có học hành, có biết ít vốn tiếng Pháp ba được chính quyền địa phương cho đi học bổ túc văn hóa tại Lệ Thủy. Năm 1962, ba đi học lớp y tá và tốt nghiệp y tá sơ cấp tại Đồng Hới.  Sau đó ba về tham gia vào làm việc Y tế thôn bản. Vừa tham gia lao động, vừa chạy chữa chăm lo sức khỏe cho bà con thôn xóm. Rồi năm 1965, giặc Mỹ điên cuồng “leo thang”, đưa máy bay bắn phá miền Bắc. Chiến tranh chống Mỹ tại quê nhà lúc bấy giờ rất ác liệt. Tại bến phà Long Đại bom đạn máy bay giặc Mỹ bắn phá liên miên suốt ngày đêm không ngớt. Kể từ năm 1965, đến 1972 bến phà Long Đại là trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của máy bay giặc Mỹ. Nơi đây có các đơn vị pháo phòng không thường xuyên bắn trả những đợt máy bay Mỹ oanh tạc; nơi đây có nhiều kho lương thực, đạn dược, có bến phà thông bến sông Long Đại, chuyển người, vật tư chi viện cho miền Nam ruột thịt nên bọn “giặc trời” đã dùng mọi cách hòng ngăn chặn mọi hoạt động của quân và dân ta. Tuy chiến tranh ác liệt, cuộc sống vất vả nhưng ba mẹ cũng như bao người dân của thôn quê phải lên rừng khai hoang trồng khoai sắn, rau màu, chăn nuôi, chặt củi. Với tấm lòng thương yêu con, chăm lo cuộc sống gia đình, ba mẹ phải chịu  cảnh  “thắt lưng buộc bụng”  đã nuôi các con (7 người con) ăn học thành đạt. Lại nhớ, những năm tháng chiến tranh ác liệt, mẹ các con một mình gồng gánh đưa mấy đứa còn nhỏ đi sơ tán làng bên Cổ Hiền, rồi sang Nguyệt Áng, lên xã Trường sơn, còn hai chị em lớn hơn đi sơ tán (K8) ở Thanh Hóa. Ở lại quê chỉ có o út với ba. Ba làm y tá thôn, vừa sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu. Những lần máy bay địch thả bom vào trận địa pháo cao xạ của bộ đội, vào hầm trú ẩn của dân, ba đều có mặt, băng bó cấp cứu nhiều người bị thương rồi đưa đi bệnh viện kịp thời. Ngày cũng như đêm không rời túi cứu thương. Người ta nghe kẻng báo động thì vào hầm trú ẩn, ba nghe kẻng báo động phải chạy bộ đến nơi có bom vừa nổ để phục vụ. Ba đã băng bó, hô hấp nhân tạo, cấp cứu cho hàng chục trường hợp các chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong và người dân bị thương. Trong khi làm nhiệm vụ, có khi quên cả cơm, gói vài củ khoai nhét bên túi cứu thương, khi nào xong việc mới ăn cho qua bữa. Có lúc hầm của bộ đội bị máy bay dội bom sập, không có dụng cụ phải lấy mũ “cối” hoặc tay để moi đất. Bàn tay rĩ máu, khi băng bó cho thương binh cứ tưởng máu của họ chưa cầm. Tiếng bom địch dội xuống, tiếng pháo cao xạ của ta bắn trả ùng oàng, inh tai nhức óc”.  Một chi tiết chắc chưa được ghi chép vào sử sách, được bố vợ kể lại: “Để tránh tổn thất về người, xe chở bộ đội đến đầu làng Long Đại thì dừng lại. Bộ đội đi bộ đến bến đò giả chiến gần nhà mình do ông Phan Bọc đưa đón.  Đêm đêm, ông Phan Bọc cùng  dân quân địa phương chèo đò đưa bộ đội vượt sông. Rồi bộ đội hành quân qua thôn Đồng Tư đến thôn Xuân Dục đón xe, khi xe đã qua phà. Có một vài chiến sĩ bị sốt rét ba phải chăm sóc, tiêm thuốc. Cắt sốt lại vội vả lên đường”. Nhạc phụ vừa kể, vừa trầm ngâm nhìn nhạc mẫu như đồng tình với những cái gật đầu của bà. Tôi như đang tưởng tượng trước mắt mình là những thước phim về một cuộc đời khốn khó mà bố vợ đang chắp nối lại. Lòng tôi cũng nghẹn lại trong nỗi xúc động. Dừng lại giây lát, bố vợ nhìn tôi như muốn kể tiếp. Tôi nhìn ông khẽ gật đầu. Rồi ông kể: “Trong kháng chiến chống Mỹ, bến phà Long Đại là một trọng điểm máy bay địch thường xuyên đánh phá ác liệt. Bến phà Long Đại là “túi đựng bom” của không quân Mỹ, rồi pháo hạm đội 7 ngày đêm dội vào nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam. Thật như: “Nơi mảnh bom thù dày hơn sỏi đá…/ Nơi một tấm ván phà mấy trăm vết đạn” (trích trong bài thơ: Đêm hành quân qua phà Long Đại của Vũ Đình Văn). Hàng ngàn dân thường, cán bộ, bộ đội, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến của tuyến đường “Đông Trường Sơn” đã tham gia chiến đấu để đảm bảo cho mạch máu giao thông được thông suốt. Bến phà là nơi vận chuyển lương thực, súng đạn… góp phần quyết định cho công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Làng Long Đại ngày đêm bị bom địch cày nát. Làng xóm mù mịt khói bom. Hai bờ Long Đại có hệ thống trận địa phòng không tầm cao, tầm trung, tầm thấp như lưới lửa bủa vây bọn “thần sấm con ma”. Bộ đội chủ lực và dân quân du kích trực chiến ngày đêm đánh trả máy bay địch, bảo vệ bến phà. Gian khổ là vậy nhưng người dân ai cũng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào cuộc chống Mỹ cứu nước toàn thắng sẽ đến. Và rồi hạnh phúc cũng được vỡ òa. Ngày thống nhất Bắc Nam đã trở thành hiện thực, ngày 30 tháng Tư đi vào lịch sử, đã trở thành một mốc son chói lọi”.

Tuy khổ cực nhưng ông bà đã cố gắng vượt qua để nuôi các con ăn học. Theo cụ ông, chỉ có cố gắng học hành mới có cơ hội thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu, vươn lên làm giàu. Một chi tiết mà bố vợ cho biết là: Các gia đình, người ta đựng thóc lúa,  khoai sắn vào chum để tránh bị cháy khi máy bay thả bom . Còn ông cất sách vở các con vào chum để sách vở khỏi bị cháy, các con còn có để học hành. Hạnh phúc lớn nhất bây giờ của ông bà là 5 người con gái và 2 con trai đều học hành, đỗ đạt có người là Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Giáo viên…. Và đã xây dựng gia đình, đều làm việc Nhà nước. Các cháu của ông bà giờ cũng đã trưởng thành. Tính đến thời điểm hiện tại (2023) có 14 cháu, 15 chắt nội, ngoại đuề huề vui thú tuổi già.  Hơn 60 năm chung sống, ông bà chưa bao giờ nặng lời với nhau trước mặt con cháu. Đối với lối xóm, ông bà luôn ân cần, tận tâm trong mọi việc nên bà con rất quý mến. Các con cháu thường xuyên quan tâm chăm sóc ba mẹ và thương yêu giúp đỡ lẫn nhau nên đại gia đình luôn hòa thuận, êm ấm.

Khi về già, cụ ông thôi không làm y tá thôn nữa. Hai cụ về chăm lo vườn tược, vui cùng con cháu. Hơn 30 năm tận tụy với nghề “thầy thuốc”, cụ ông không quản ngại khó khăn vất vả, hoàn thành nhiệm vụ. Nghỉ việc vì tuổi cao, không có chế độ đãi ngộ, nhưng cụ không một lời ca thán. Cụ bảo: “Mình thiệt thòi một thì những người cầm súng đánh Mỹ thiệt thòi mười, những thương binh, liệt sĩ còn thiệt thòi gấp trăm lần”. Với những thành tích đạt được, cụ ông được Nhà nước tặng thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì và nhiều bằng, giấy khen khác. Cụ bà được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất,  Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Được thế cũng toại nguyện lắm rồi.

Tuy tuổi cao, nhưng cụ ông vẫn tích cực làm vườn, cụ bà đi chợ, không dựa dẫm nhiều vào con cháu. Vườn hai cụ chủ yếu là vườn chuối, đu đủ và rau xanh mùa nào thức ấy. Thời gian rảnh rỗi, cụ ông làm thơ, hò vè, đọc sách báo cho cụ bà nghe, hoặc cùng bàn luận chuyện chính trị, xã hội…

 Năm 2013, cơn bão lũ làm xói lở đường liên thôn, cụ ông lúc đó 83 tuổi vẫn hăng hái cùng bà con cuốc đất, đổ đá tu sửa lại đường đi. Năm 2016, gia đình hai cụ và các con đã ủng hộ hơn 10 triệu đồng để xây nhà văn hóa thôn. Những năm qua, năm nào gia đình cũng được chính quyền công nhận là “Gia đình văn hóa, hiếu học”, xứng đáng là tấm gương sáng ở địa phương.

Đất nước thống nhất, lịch sử đã sang trang. Thôn Long Đại đã thay da đổi thịt. Cùng với cả nước, người làng quê chăm chỉ làm ăn, cuộc sống ngày càng khấm khá. Nhà cao, ngói mới. Điện, đường, trường, trạm khang trang hiện đại. Tuy giờ đây hai cụ không còn sức cống hiến nhưng tấm lòng hai cụ luôn hướng về nghiệp làm ăn của thôn xóm, của con cháu mà lòng cũng vui theo.

Chiều hè, các cụ trong xóm rủ nhau ra bờ sông ngắm nhìn những chiếc tàu, sà lan chở cát sạn, hàng hóa ngược xuôi. Ngắm nhìn những chiếc thuyền câu, thuyền chài lưới yên ả trên sông, ngắm trời mây thanh bình. Bên ấm trà tỏa hương, các cụ ôn lại quá khứ một thời Long Đại anh hùng mà lòng lâng lâng tự hào.

Trời xế chiều, tôi cùng vợ, con, cháu chia tay hai cụ. Hai cụ lặng nhìn đoàn cháu, chắt trong tình yêu thương trìu mến, đôi mắt ươn ướt. Tạm biệt bố mẹ vợ - ngoại của con - mà  lòng tôi thấy ấm áp lạ thường. Thật vinh dự khi mình là con rể của làng quê Long Đại anh hùng, con rể của hai cụ - những người đã một thời chắt chiu mồ hôi, trí lực cho con cháu rạng danh hôm nay và mai sau.

 

Nguyễn Đại Duẫn




Ảnh cụ bà, tết 2023




Ảnh cụ ông, 2018.




Cụ ông, người cầm nón, đang tu sửa đường do bão lụt, 2013.

 

Ảng hai cụ, tết 2023




      

 

READ MORE - NGOẠI CỦA CON - Bút ký - Nguyễn Đại Duẫn

Wednesday, December 28, 2022

Chùm ảnh HOA LYLY "TỶ MUỘI" - Chu Vương Miện

 Bấm chuột vào hình để phóng to.









READ MORE - Chùm ảnh HOA LYLY "TỶ MUỘI" - Chu Vương Miện

ĐÔI LỜI VỀ BÀI THƠ "EM" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Linh Nguyên

 

Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến

ĐÔI LỜI VỀ BÀI THƠ "EM"

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

*

Có những bài thơ tôi đọc không chớp mắt, như bài Em của Đặng Xuân Xuyến:


Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta

Nửa đời ta trễ hẹn

Em nồng nàn đốt ta.

 

Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại

Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say.

 

Trời đất như cuồng say

Ngả nghiêng theo nhịp phách

Nửa đời trai trinh bạch

Em nhuộm ta ngả màu.


Người ta cho rằng trai gái yêu nhau là do phải lòng nhau, do có duyên mà gặp, hoặc do tiếng sét ái tình. Đó là họ đẹp hóa chuyện làm quen trong tình yêu mà thôi. Nói trắng ra là họ xạo!


Thằng đàn ông nào cũng là một thằng thợ bẫy tình! Thằng đàn ông trong bài thơ đang bẫy “em”:


Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta


Hiểu “cạn chén” theo nghĩa đen cũng được nhưng e thô thiển quá. Tôi thấy gã trai không thô thiển, gã tuy phóng đãng nhưng có tâm hồn. Từ “gạ” nói lên bản chất bẫy tình bẩm sinh của gã. Từ “cạn” thể hiện những vùng nghĩa mù mờ của cho-nhận, được-mất, nhiều-ít… trong tình yêu.


Chính xác là cả hai hai đang cạn nhau một chén ái tình. Và gã trai đã “chết” một cách tự nguyện:


Nửa đời ta trễ hẹn

Em nồng nàn đốt ta


Khổ hai của bài thơ làm tôi đôi chút rùng mình. Bài thơ có nguy cơ chuyển sang hướng khác bởi hơi hướng phồn thực. Nhưng phồn thực trong ngôn từ mà không phồn thực trong ý tứ. Tục lụy hơn, nhục thể hơn, nên mê hoặc hơn.


Bỏ qua những “ghì”, “quấn”, bỏ qua những tưởng tượng bởi dẫn dụ từ đặc trưng “mờ ngữ nghĩa” của thơ, ta sẽ thấy người viết đã có một sáng tạo đột xuất: viết như không viết! Sự cộng hưởng của 2 từ “dại”, 2 từ “say” tạo nên trạng thái ngất ngây, buông thả, chìm đắm trong cảm xúc và cảm giác yêu đương. Tôi cho đây là khổ thơ thành công nhất của bài.


Tôi rất mừng khi tác giả đã kịp dừng cảm giác ấy lại khi vừa qua khổ 3. Thơ như vậy là vừa đủ lượng và chất.


Họ uống men tình. Họ du dương theo nhạc tình:


Ngả nghiêng theo nhịp phách


Bài thơ sử dụng dày đặc yếu tố trùng lặp, nhiều đến độ nếu bỏ đi các từ lặp, bài thơ chỉ còn hơn một nửa! Tôi gọi đó là phép “lải nhải” trong tình yêu của kẻ say tình, nói mãi mà không dứt ra được, yêu mãi mà không tỉnh lại được.


Câu “đúng người, đúng thời điểm” rất hợp với bài thơ này. Gã trai trễ cả nửa đời người để đợi em, chỉ đợi em và hiến dâng cho em:


Nửa đời trai trinh bạch

Em nhuộm ta ngả màu


Thật thú vị! Có gì đó sai sai, ngược ngược ở đây. Cám ơn gã trai, cám ơn tác giả đã nói hộ cho nhiều gã trai sự đoan trang không ai nhận ra của mình!


Bài thơ khép lại vẫn với sự mập mờ của được-mất, cho-nhận, ít-nhiều…trong tình yêu. Tôi thấy sự phóng đãng của gã trai mới đáng yêu làm sao!


Tôi thích bài thơ này!

*.

Biên Hòa, 25 tháng 12-2022

LINH NGUYÊN

READ MORE - ĐÔI LỜI VỀ BÀI THƠ "EM" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Linh Nguyên

THƠ 1-2-3 CỦA TRẦN MAI NGÂN


 

 
THƠ 1-2-3
 
1
**Khuyến dụ đêm ở lại đừng đi
 
Để nối dài thêm thăm thẳm
Giọt sương rơi đẫm trên cánh hồng nhung
 
Nước mắt nào nóng hổi
Lăn, lăn… xuống má, môi… ướt khuôn ngực đàn bà
Ngoài kia một ngôi sao vừa bỏ bầu trời!
 
2
**Trên cánh môi hồng
 
Thì thầm… thì thầm
Lời an vui hạnh phúc
 
Ấm nồng gửi về nhau
Em chia đôi giọt mật
Anh ngậm cả mùa Xuân…
 
Trần Mai Ngân
 
READ MORE - THƠ 1-2-3 CỦA TRẦN MAI NGÂN

CHIỀU 28 THÁNG MƯỜI HAI – Thơ Lê Phước Sinh


 
                       Nhà thơ Lê Phước Sinh


CHIỀU 28 THÁNG MƯỜI HAI 
 
Còn ba hôm, năm cũ
thếp lịch muốn rời trang
Trời dường như đọng tuyết
xuýt xoa người ôm người.
 
Năm nay có vẽ sớm
nhiều nơi đổ về quê
Công nhân thời khốn đốn
lo xe pháo bộn bề.
 
Cả năm xoay chật vật
như chiếu manh thụt lồi...
&
Mùa Xuân phải tươi rói
cho nhựa chuyển rần rần
để Gái Trai rạo rực
mới đúng: - Nhật Nhật tân !!!
 
Lê Phước Sinh

READ MORE - CHIỀU 28 THÁNG MƯỜI HAI – Thơ Lê Phước Sinh

ĐÊM CUỐI NĂM TUYẾT ĐỔ THẤY GÌ? – Thơ Nguyên Lạc


 

 
ĐÊM CUỐI NĂM TUYẾT ĐỔ
THẤY GÌ?
 
Bâng khuâng cô lữ niềm cố xứ
Đêm nay bông tuyết trắng một màu
Màu trắng tang thương màu lệ tuyết
Tuyết lệ rơi rơi khóc bạc đầu
Cuối năm tuyết chạm miền ký ức
Ly khách thấy gì mà nhói đau?
 
*
Đêm tuyết đổ thấy đời cô lữ
Một nỗi sầu rất đỗi mênh mông
Thấy một thời oan nghiệt xa xăm
Cùng nỗi lạnh xuyên vào ngăn nhớ!
 
Đêm tuyết đổ thấy bao tan vỡ
Ẩn mình trong tiềm thức khói sương
Thấy lụi tàn lứa tuổi thanh xuân
Thấy ly biệt khốn cùng dâu bể!
 
Đêm tuyết đổ thấy dòng lệ khổ
Tiễn người anh cơ khổ ngục tù
Rồi khói mây... vượt trại hận thù
40 năm vợ con ngóng đợi!
40 năm con thơ vẫn đợi
Vẫn đợi chờ... chờ đợi không thôi
Người vọng phu đêm ra nằm nghĩa địa
Ôm bóng trăng... điên. Thê thảm một đời!
 
Đêm tuyết đổ thấy gì tôi hỡi?
Thấy. con đường khập khiễng cha đi
Mặt thống trầm trên đôi nạng sầu bi
Vào tử ngục...
Rồi mạng vong vì niềm tin tôn giáo!
 
Đêm tuyết đổ thấy tôi trở về vùng quê ảo não
Tiếng kêu chiều chim vịt bên nương
Hoài niệm phố xưa... đưa đón con đường
Nhớ tình khúc "Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt" [*]
 
Đêm tuyết đổ thấy. trước ngày vượt thoát
Căn chòi hoang đêm thân xác ân cần
- Ôm em đi anh ơi!
ngoài trời mưa lạnh lắm!
- Siết chắc em thêm anh ơi!
Cho bùng vỡ tình này
- Yêu em thêm anh ơi!
Ta tan nhau lần cuối
Mai sẽ rồi "xa cách nghìn trùng"!
Đêm nay cho nhau, cho cả não nùng
Rồi vĩnh biệt mai này ta sẽ...!
 
Đêm tuyết đổ thấy muôn trùng sóng dữ
Thấy sự thét gầm khủng khiếp của trùng dương
Thấy sự nhỏ bé cùng nỗi vô vọng của con người trước sóng cả nộ cuồng
Thấy đói khát. chết chóc. đau thương
thấy những dòng lệ ứa
Mẹ ngất con
Chồng khóc vợ
Thấy uất hận lũ hải tặc hung tàn
Bao trinh nguyên đời đã nát tan!
Gây chi cảnh đoạn trường sinh ly tử biệt?
 
Đêm tuyết đổ. tiếng thời gian thê thiết
Tích tắc. tích tắc. điệp khúc buồn như lời kinh tụng!
Nhớ quê hương. nhớ dòng sông. nhớ tiếng chiều đồng vọng
Nhớ bóng hình tóc rũ bên bến vời trông!
 
Đêm tuyết đổ. có một người đối bóng
Nến lụn. tim tàn. nỗi nhớ mênh mang!
Thấy một thời cùng bao nỗi tang thương
Đêm tuyết đổ cuối năm! Người ơi có biết?
 
*
Đâu đó tri âm người có biết?
Có kẻ đông nay hận bạc đầu
Khóc tuổi thanh xuân đời phi lý
Cuối năm thất chí độc ẩm sầu!
 
Còn đâu! còn gì đâu?
Ly khách sầu tha hương
Một thế hệ nhiễu nhương
Ôi nghiệt oan lịch sử!
 
Nguyên Lạc
 
[*] Lời nhạc Trả Lại Em Yêu - Phạm Duy
 
READ MORE - ĐÊM CUỐI NĂM TUYẾT ĐỔ THẤY GÌ? – Thơ Nguyên Lạc

HƯƠNG THU – Thơ Nhật Quang



 
 
HƯƠNG THU
                                
Rồi có một ngày ta yêu em
Thu ơi!  xin đừng lỗi hẹn
Cho những chiếc lá vàng hong miền nhớ
Phơi ngày dài, đếm từng phút chờ mong
 
Nụ hôn... nhẹ trao em hương nồng
Nhánh cỏ hoa ngát mùa xanh thầm lặng
Như những cánh bướm rong chơi phiêu lãng
Lả lơi hương tình vui ân ái... ngất ngây
 
Ta sẽ níu hương Thu trong vòng tay
Ôm thật chặt, lỡ đông về giá lạnh
Để cỏ hoa  không nhạt màu theo nắng
Tay nâng niu ủ ấp… chiều cô đơn
 
Ta sẽ yêu Thu tha thiết hơn
Nhưng chẳng bao giờ giữ được
Hương Thu sẽ lãng đãng theo mây hồng mơ ước…
Chỉ còn ta, chiều buồn tay với níu hư không.
                             
Nhật Quang

READ MORE - HƯƠNG THU – Thơ Nhật Quang

Tuesday, December 27, 2022

VIẾT TẶNG NGÀY CUỐI NĂM – Thơ Khaly Chàm


 


viết tặng ngày cuối năm
 
1. thuộc về quá khứ
giũ áo bụi của những ngày tháng cũ
nhiễu nhương hề. sầu rụng nhẹ như không
ngất ngưởng ta một đời như gió hú
hồn lửng lơ theo khói nhập vô cùng
 
ngày thống khổ. khát tình bên vực tối
nhục thể cuồng lời ngọt nhọn như dao
tim loạn nhịp tràn khuya thoi thóp thở
em thuở nào… trầm mộng đắng lòng nhau
 
2. yêu thương tặng Hoàng Vũ Nữ.
cát bụi khóc hình người ta rỗng trắng
xin quy hàng ẩn nghiệp mãi thanh tân
chợt rơi xuống chạm nụ cười sâu thẳm
rực cháy em. ta chết chỉ một lần!
 
tình nồng nhiệt. bổng. trầm hay chỏi ngược
tinh trùng thơm cõi lặng biến thiên rồi
lửa trần trụi tìm môi hồng trú ngụ
tuyệt nhiên nào dìu dục tính lên ngôi
 
tptayninh 2022
khaly cham

READ MORE - VIẾT TẶNG NGÀY CUỐI NĂM – Thơ Khaly Chàm

Monday, December 26, 2022

TƯỞNG, ĐÊM - Thơ Lê Phước Sinh


 
                 Nhà thơ Lê Phước Sinh

 
TƯỞNG
 
TRĂNG non thì chấm Muối Tiêu 
Chín giòn ngọt lịm lại nhiều Tương tư ...
 
 
ĐÊM 
 
Phương Nam ươm nụ Tháng Mười Hai
Sương lạnh se se thoảng Hoa Nhài ...
 
Lê Phước Sinh

READ MORE - TƯỞNG, ĐÊM - Thơ Lê Phước Sinh

Sunday, December 25, 2022

ĐÊM ĐÔNG LẠNH TRỜI MƯA XUỐNG - Nhạc và lời: Phạm Anh Dũng - Thiên Phượng hát - Duy Cường hòa âm.

READ MORE - ĐÊM ĐÔNG LẠNH TRỜI MƯA XUỐNG - Nhạc và lời: Phạm Anh Dũng - Thiên Phượng hát - Duy Cường hòa âm.

MÍA NGON ĐÁNH CẢ CỤM - Truyện ngắn Vũ Hùng

 

Nhà văn Vũ Húng

Truyện ngắn 

MÍA NGON ĐÁNH CẢ CỤM

 

Để tui kể thêm cái đoạn Thầy Dài bị kỷ luật và sa thải ra sao để mấy ông rõ. Cứ thắc mắc hoài? Nhưng ngăn ngắn thôi nha!

Khi Ban Giáo Dục Huyện ký quyết định đẩy Thầy Dài lên Trường Long Thành xa xôi hẻo lánh chưa ráo mực và Thầy Năm Hiệu trưởng chưa kịp xoa tay cười hả hê cho bõ tức thì cô giáo Thư, chị ruột của Thầy đã mua tặng cho người tình yêu quý chiếc mũ phớt mới coóng của Pháp Quốc chánh hiệu màu cứt ngựa hẳn hoi và chiếc xe Honda 67 của Nhựt Bổn chánh hãng đỏ tươi như màu quan tài, ngay cả dân giàu có ở thị xã Quy Nhơn cũng không dám ước mơ đủ bộ như thế?

Vi vu bằng xe Honda mới kẻng về trường mới, Thầy Dài năng nổ lắm. Siêng năng thăm hỏi phụ huynh, quan tâm giúp đỡ học sinh những gia đình neo đơn, cô quả. Ai cũng quý, cũng thương. Đặc biệt Thầy thường lui tới nhà chị Ba Bảnh, đẹp người đẹp nết, chồng chết đã mười năm cứ ở vậy nuôi con  chẳng một điều tiếng nào. Thầy giúp chị lợp lại mái nhà, sửa lại hàng rào gãy nát...

Ngày giỗ chồng chị Ba Bảnh có mời  người anh cả con ông bác ruột là Thầy Năm lên dự. Oan gia ngõ hẹp lại gặp nhau. Thầy Năm nhìn cái bụng lùm lùm hở nút của cô em họ rồi nhìn hàm răng vẩu của Thầy Dài mà máu trong người cứ sôi lên ùng ục, ùng ục...

Thầy Năm hậm hực bỏ về, tức tốc viết ngay lá đơn dài đúng 9 trang giấy manh gửi gấp lên Ban Giáo dục và Ty Giáo dục...

Bị buộc thôi việc việc Thầy Dài chuyển qua nghề đờn một cách chóng vánh. Tiếng đờn của Thầy ngọt lắm, ngọt đến nỗi hai Dì cháu làng Lam Giang - đang trọ Xóm Cá để học việc tại  Nhà may Thống Nhì, thị trấn Bình Định -mê như điếu đổ. Hết Dì rồi Cháu cứ thi nhau trốn học may để nghe ngón đờn mùi mẫn của Thầy Dài như một ma lực không thể nào cưỡng nổi .

Chưa đầy ba tháng học may chẳng đâu vào đâu, trước Dì sau cháu đều có chung triệu chứng thèm chua và nôn oẹ khi ngửi phải mùi cơm!..

Khi nghe tin Dì Út chưa đầy 50 tuổi đột ngột qua đời vì nhồi máu cơ tim, Thầy Năm đạp xe xe như bay về làng Lam Giang. Đến nơi thi thể của Dì cũng vừa khâm liệm xong. Bốn năm ông vừa sư, vừa tiểu đang ê a tụng kinh, gõ mõ.

Thầy Năm hỏi dượng Út :

- Sao em Tư với cháu ngoại bị bịnh gì mà xanh xao, ốm yếu dữ vậy Dượng?

Dượng Út nghẹn ngào chưa kịp trả lời thì ngoài sân đã nghe tiếng bình bịch, bình bịch của chiếc xe Honda 67 đỏ chói và chiếc mũ phớt màu cứt ngựa xuất hiện.

Mặt mày bỗng biến sắc, từ cổ họng Thầy Năm bật ra một câu yếu ớt, chẳng ai hiểu gì cả!

-Trời ơi! Mía ngon đánh cả cụm à?

Rồi Thầy ngã vật ra bất tỉnh!...

Bình Định, 04.9.2021

Vũ Hùng

 

READ MORE - MÍA NGON ĐÁNH CẢ CỤM - Truyện ngắn Vũ Hùng