ĐÔI CÁNH BẠCH DIỆP
Trường
ca là thuật ngữ văn học với nghĩa mở rộng chỉ những
tác phẩm thơ cải biên từ sử thi hoặc các tác phẩm
truyền thuyết cổ xưa. Vì trường ca viết theo thể thơ
nên chứa dung lượng lớn, trong đó có nhân vật và cả
lời thoại, cho nên thể loại này mang tính kịch trữ
tình không kém phần lãng mạn.
Văn
học sử Việt Nam chưa thật sự gây dấu ấn về trường
ca vì sự phát triển rời rạc, lẻ tẻ, thiếu độ hút
khiến độc giả quan tâm, trừ mảng văn học dân tộc
với trường ca Đam San, Xinh Nhã của người Ê Đê, sử
thi Đẻ Đất Đẻ Nước thuộc dân tộc Mường… Nếu
bỏ qua tính sử thi và dựa vào tích cổ xưa, danh tác
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du hay Cung Oán Ngâm
Khúc của Ôn Như Hầu – Nguyễn Gia Thiều cùng nhiều tác
phẩm khác cũng xếp vào trường ca theo nghĩa mở rộng
nhưng ít được các học giả nhận định theo hướng
này.
Trường
ca có nhiều loại, trong đó có trường ca giáo huấn đề
cao điều thiện, giúp người đọc hướng đến ước mơ
muôn thuở về chân lý Chánh ắt thằng Tà – một giấc
mơ với lý tưởng cao đẹp suốt quá trình lịch sử phát
triển loài người luôn nhắc đến như ước vọng cái ác
sẽ bị diệt trừ. Ca ngợi điều Thiện như phương châm
giáo dục từ ngàn xưa được nhiều tác phẩm nhắc đến
để răn dạy thế hệ tiếp nối tu tập về nhân cách,
đạt đến sự Chân, Thiện, Mỹ hòa hợp.
Văn
học vốn nhiều thể loại, tùy theo kiến thức và sở
thích các tác giả chọn một hướng đi cho riêng mình.
Tác phẩm thành công hay thất bại tùy vào khả năng người
sáng tạo chứ không phụ thuộc vào thể loại được lựa
chọn. Thể loại vốn vô tội! Tội tình hay không thuộc
về người sáng tạo. Và… theo phương châm sống: “Nếu
như bạn không làm được, chưa chắc người khác thất
bại. Ngược lại, người khác làm được, bạn cũng có
thể làm được, biết đâu lại tốt hơn!”
Cái
ranh giữa truyện thơ và trường ca hầu như khó phân
định! Tùy vào nội dung trong thể tài, nhà bình luận đưa
ra quan điểm cá nhân. Văn học được đánh giá phong phú
khi nền văn hóa mỗi nước sáng tạo bởi nhiều thể
loại với đa sắc thái. Vậy tại sao phải chê bai thể
loại này lại tôn vinh cái kia!? Nếu mọi tác giả đều
yêu thích thể thơ lục bát thì song thất ra đời để
chi? Có ngũ ngôn tất có thất ngôn, lục ngôn. Có luật
lệ tất có tự do… Nên nhân sinh mới lắm màu nhiều
vẻ, cho sáng tạo vốn vô cùng…
Nhiều
ý kiến cho rằng, văn học hiện đại nên cách tân để
phù hợp với trào lưu thế giới! Điều này không sai.
Nhưng… nếu mọi tác giả đều sáng tạo theo hướng này
thì ai sẽ là người duy trì giá trị truyền thống, bảo
tồn di sản của cha ông!?
Con
chữ vốn vô tội, đừng ai đem thiển kiến nhập nhằng
vào các thể chế chính trị, đừng ai bài xích từ
Hán-Việt khi trong kho tàng tiếng Việt lượng Hán-Việt
chiếm từ 60-70%. Vậy người sáng tác sẽ làm gì với
30-40% từ thuần Việt còn lại? Để rồi tự hào tiếng
Việt ta giàu và đẹp!?
Phải
thừa nhận một điều là sau 1000 năm bị chính quyền Bắc
phương đô hộ đã đưa đến sự giao thoa văn hóa giữa
hai dân tộc có lắm duyên nhiều nợ truyền đời. Trước
khi có quốc ngữ, người Việt buộc lòng sử dụng chữ
Hán (Tiền thân chữ Nôm sau này) để ghi chép văn bản
phục vụ khoa cử hay lưu gìn tác phẩm văn học. Nhưng…
âm Hán-Việt (Quốc âm) là sản phẩm đặc thù của Việt
Nam khi đọc chữ Hán cổ, ngay cả sắc tộc người Hoa
sống lâu đời trên đất Việt, nghe cũng không hiểu
được! Vậy từ Hán-Việt của Việt Nam hay Trung Hoa cổ
đại!?
Lại
có ý kiến cho rằng từ Hán-Việt gây rắc rối khó hiểu
cho người đọc! Trong khi ai cũng biết rằng, muốn học
ngôn ngữ nào đó thì vốn từ vựng càng nhiều giao tiếp
càng tốt, thực hiện văn bản càng hay. Vậy khi bạn gặp
một từ khó hiểu nên trách vốn từ của mình hay trách
con chữ!?
Nhiều
tư tưởng chê bai ngôn ngữ tiếng Việt thiếu hình ảnh,
cảm xúc khi so sánh với ngôn ngữ các nước – ngôn ngữ
quê hương thứ hai đang sinh sống! Đáng buồn là ngay cả
ngôn ngữ được yêu chuộng trên quê hương thứ hai cũng
không giúp họ bay cao trong ý tưởng để người viết bài
có thể ngưỡng mộ một đứa con gốc Việt đang làm nên
tự hào cho cả dân tộc. Hạ thấp ngôn ngữ mẹ đẻ,
đem oai phong tặng cho người, nhưng sự chứng minh nhạt
nhòa chưa thuyết phục lại suốt ngày cất tiếng hót
đánh giá của Thánh nhân! Một cách nhìn đúng đắn thuộc
văn học chăng!?
Có
cổ tất có kim. Có tân sẽ có cựu. Trên mảng văn học
mạng ngày nay rất nhiều tác giả quay về với các thể
loại cổ xưa! Quay về không có nghĩa là kéo lùi lịch
sử, tiếp cận lạc hậu. Quay về phải hiểu theo nghĩa
phục hưng, bảo tồn nét văn hóa ngàn đời của cha ông
đã dày công tạo dựng. Vậy phú, từ… trường ca hay
truyện thơ cổ tích, giáo huấn được tiếp bước đâu
có gì lạ!?
Vô
tình tôi có duyên tương tác với một tác giả trong số
nhiều tác giả chưa được dịp tiếp cận… Một tác
giả chuyên viết truyện thơ đôi khi lại rơi vào khái
niệm trường ca giáo huấn với nhiều chủ đề về kiếm
hiệp rất hiếm thấy! Trong khuôn khổ bài viết giới
hạn, tôi sẽ không can thiệp vào nghệ thuật văn học
trong tác phẩm, hãy để độc giả tự cảm nhận theo
cách của mình…
***
CHUYỆN
LẠ
Cuối
đời Đường, đầu nhà Tống
Chuyện
Bồ Tát Quán Thế Âm
Giúp
một người qua tai nạn
Được
lưu truyền khắp nhân gian.
Cô
Tô thành, chiều nắng nhạt,
Bóng
một người đi gấp gáp.
Dong
dỏng cao, lưng thẳng tắp
Ông
ta dáng vẻ trang nghiêm.
Là
người thương nhân bận rộn
Ông
ta tên Tiêu Nhất Phong
Chuyển
hàng khắp nơi, khắp chốn
Làm
ăn mà nên giàu có.
Nhất
Phong là người chăm chỉ
Nhất
lòng thờ Phật Quán Âm.
Không
tranh giành, chẳng so bì
Luôn
luôn thật thà, vui vẻ.
Cưới
vợ cân xứng hào môn.
Cô
vợ sắc đẹp cờn cờn,
Da
trắng, mắt đen hơn hớn.
Môi
hồng, mũi thẳng dọc dừa.
Nhất
Phong bận việc đi xa.
Cô
vợ nhàn rỗi, ở nhà
Gặp
người hàng xóm Khang Thất
Gặp
nhau sóng mắt đưa tình.
Người
ta nói: "Ông chồng hiền
Sao
lại nhận ngay quả báo,
Người
vợ lăng loàn, trắc nết
Ông
ta chẳng hay, chẳng biết"
Một
đêm ông ở Gia Hưng.
Nằm
mộng thấy Phật Quán Âm
Ngài
hiện bảo tướng trang nghiêm
Vẻ
đẹp thông minh, thánh thiện.
Rồng
xanh bay lượn phía trên
Tay
Ngài cầm ngọc Như Ý.
Để
ngọc trên đỉnh đầu ông,
Ngài
nói: "Này Tiêu Nhất Phong
Ông
tin Phật và thiện lương
Nên
cứu ông qua tai nạn.
Ta
cho ông bốn câu kệ,
Hãy
nhớ đừng bao giờ quên:
Khi
gặp cầu chớ dừng tàu
Lúc
có dầu trét lên đầu
Đong
đấu thóc ba thăng gạo
Gặp
ruồi xanh bu bút đầu"
Chưa
hiểu được điều Phật dặn
Thành
kính quỳ lạy, cảm ơn
Nhẩm
cho đến khi thuộc lòng
Nhất
tâm ghi tạc công ơn.
Xong
việc, cần phải về nhà
Ông
thuê một chiếc tàu riêng,
Lúc
đi trời xanh biêng biếc
Dòng
sông nước chảy hiền hoà.
Bỗng
dưng mưa như trút nước
Sấm
chớp đì đùng, sáng loé
Người
lái tàu rất hoảng sợ
Nên
chèo gấp vào gầm cầu.
Nghĩ
bụng trú một chút thôi
Nhất
Phong nhớ ngay lời dặn
Hối
người lái thuyền chèo vội
Ra
khỏi gầm cầu cho mau.
Nhà
thuyền vội vàng chèo gấp
Ra
khỏi gầm cầu chưa lâu,
Một
tiếng rầm, nổ thật lớn
Cây
cầu đã gãy làm đôi.
Nhà
thuyền tái mặt hỏi dồn:
"Làm
sao mà ông biết trước?"
Nhất
Phong thật tình kể rõ
Phật
Quán Thế Âm dặn dò.
Nhà
thuyền một lòng ghi nhớ.
Thành
kính bái lạy ơn trên.
Về
Cô Tô ngày nắng ấm,
Mừng
vì chuyến đi thành đạt
Ông
vội vào nhà, bái lạy
Cung
kính Phật Quán Thế Âm.
Khi
nghe kể ông thoát nạn
Vợ
ông giả vờ khóc lóc,
Tỏ
vẻ thương tâm, ân cần
Cầm
tay liên tục hỏi han.
Khang
Thất nhìn thấy phát ghen
Hắn
suy đi rồi tính lại
Chẳng
biết thế nào cho phải
Bản
tính là tên vô lại
Chuyên
nghĩ đến chuyện hại người.
Nghĩ:
"Ta mê say Lệ Mỹ
Nhưng
chắc đâu nàng chung thuỷ
Nếu
giết đi kẻ ngu kia
Ta
được nàng, cộng gia tài
"Một
chiều mưa bay lất phất
Đang
ngồi làm việc trong phòng
Nhất
Phong cảm thấy thật buồn
Quơ
tay đụng phải chai dầu,
Chai
bể, mùi thơm sực nức.
Nhớ
ngay đến một câu kệ:
"Lúc
có dầu trét lên đầu"
Ông
bôi lên áo, lên đầu,
Rồi
cùng vợ vào giường ngủ.
Tên
kia trốn trong phòng ngủ,
Nhưng
tối đen như hũ nút
Hắn
nghĩ: "Lệ Mỹ rất thơm
Ta
nghe mùi mà hành động."
Người
nằm ngoài thơm quá mức
Hắn
vội vàng chém người trong.
Lúc
trèo qua cửa sổ trốn,
Hắn
nghe tiếng khóc đàn ông.
Biết
rằng Lệ Mỹ bị giết
Hắn
lo sợ đành trốn biệt.
Nhất
Phong báo về cha vợ
Rồi
chuẩn bị làm tang lễ.
Cha
vợ lập tức thưa quan,
Quan
huyện không chứng, không bằng
Bắt
Nhất Phong về xử án,
Tra
tấn, cực hình dã man.
Tiêu
Nhất Phong không chịu nổi,
Ông
chịu ký tên nhận tội.
Họ
giam ông vào ngục tối
Chờ
ngày xét xử công khai.
Quan
huyện trong giờ làm việc,
Lấy
bút viết bản tường trình
Kính
trình lên tận quan trên.
Đặt
bút lên tờ giấy trắng,
Ba
con ruồi xanh bay đến
Bu
kín chặn vào đầu bút.
Quan
vẫy cho ruồi bay hết,
Lát
sau chặn đầu bút tiếp.
Cứ
như vậy năm bảy lần,
Quan
đành kêu ông cố vấn
Xem
sự việc rất bất thường,
Hai
người phải ngừng vụ án.
Ông
ta họ Lý tên Khôi
Ngạc
nhiên khi vào ngục tối
Nhất
Phong vẫn thản nhiên ngồi,
Chắp
tay thiền và niệm Phật.
Ông
Khôi hỏi: "Sống khổ quá
Sao
ông vẫn cứ thản nhiên"
"Phật
nói cho tôi câu kệ
Cứu
khỏi tai nạn gần kề"
Rồi
ông đọc bốn câu kệ:
"Khi
gặp cầu chớ dừng tàu
Lúc
có dầu trét lên đầu
Đong
đấu thóc ba thăng gạo
Gặp
ruồi xanh bu bút đầu"
Kể
lại hai lần nạn trước.
Lý
Khôi đọc thêm cho thuộc:
"Đong
đấu thóc ba thăng gạo
Gặp
ruồi xanh bu bút đầu"
"Ruồi
xanh bu, ứng sáng nay
Đấu
thóc không đủ, còn cám
Cám
đổi bộ chữ là Khang
Thiếu
bảy thăng chính là Thất"
Quay
hỏi: "Ông quen Khang Thất?"
Nhất
Phong thành thật trả lời:
"Hàng
xóm bên trái nhà tôi
Người
đàn ông tên Khang Thất"
Lý
Khôi vội tâu quan huyện
Án
này phải ngưng lại thật.
Cho
lính đi tìm Khang Thất
Hắn
ta khai ngay câu chuyện.
Khang
Thất bị bắt, tử hình
Nhất
Phong được ra khỏi ngục.
Ông
về nhà, rất bình tĩnh
Cung
kính tạ lễ Bồ Tát
Cảm
thấy cuộc đời chán ngán,
Ông
đem của cải cúng dường.
Đến
Hàng Châu để xuất gia
Quy
Y tại chùa Linh Ẩn.
Gia
Hưng đêm thiếu trăng, sao
Tấm
lòng đau khổ, nghẹn ngào,
Nhất
Phong tắt đèn, ngủ sớm
Hiện
hai con quỷ không đầu:
Vợ
ông và tên Khang Thất
Kêu
gào đòi ông trả mạng.
Nhất
Phong kêu thầm tên Phật
Bỗng
thấy trong phòng sáng lạn.
Phật
Bà và thêm cậu bé
Phất
cành liễu từ bình ngọc.
Hai
quỷ rút lui lặng lẽ.
Ông
thở phào và ngồi dậy.
Nghĩ
chán: "Sao họ ngang tàng
Gây
việc, gây nên nghiệp nặng
Sao
về doạ ông đòi mạng?
Lại
hiện hình quỷ xấu xa!"
Nhất
Phong nhớ lần tao ngộ:
Phật
Bà áo trắng tinh khôi
Rồng
xanh và ngọc Như Ý.
Lần
này với Hồng Hài Nhi,
Áo
xanh vạn phần lộng lẫy.
Ông
hướng về chùa Linh Ẩn
Đi
bộ suốt mấy đêm ngày,
Lúc
nào một niệm, một tâm
Tri
ân Phật Quán Thế Âm.
Sau
này đắc đạo cao tăng
Ngắm
hoàng hôn bờ Đông Hải,
Gặp
tượng bằng gỗ đàn hương
Sóng
đưa đến nơi ông đứng.
Biết
mình có duyên với Phật
Trong
tâm dứt hết hồng trần
Không
còn nghĩ đến nỗi đau,
Tâm
không mà viết chuyện này
Giúp
ích nhân thế đời sau.
Thứ
bảy 24/9/22
Ruby Tran
Mô-típ tác phẩm truyện
thơ này thường xuất hiện trong các giai thoại dân gian!
Nó giống như nhiều tác phẩm trường ca khác khi đề cao
đức tin và nhân quả. Tinh tế một chút, người đọc sẽ
thấy ấn tượng cái tâm từ người thể hiện: Tác giả
Ruby Tran. Phải có tình yêu văn học sâu sắc, cháy bỏng
mới thúc đẩy người viết vùi sâu trong ý tưởng sáng
tạo. Nào kết cấu, tình tiết, diễn biến, nhân vật,
lời thoại, trình bày. Rồi tên tuổi, sự kiện, đột
biến… Người đọc chiêm ngưỡng thì dễ, chứ đích
thân ngồi vào sáng tác lại là việc hoàn toàn khác hẳn.
Tôi dẫn bài kệ nhân vật Tiêu Nhất Phong lúc nằm mộng
thấy Quán Thế Âm ra tay giúp để tránh nạn:
“Khi
gặp cầu chớ dừng tàu
Lúc
có dầu trét lên đầu
Đong
đấu thóc ba thăng gạo
Gặp
ruồi xanh bu bút đầu"
Đoạn kệ này mộc mạc,
dễ hiểu lại khiến người đọc hoang mang khi diễn biến
câu chuyện chưa xảy ra. Một dự đoán và hướng dẫn
thoát nạn của Quán Thế Âm, nhưng với cách nhìn từ
người sáng tác lại hoàn toàn khác… Sự tinh tế đã
được sắp xếp trước đó bởi các chuỗi sự kiện,
sau đó mới đến bài kệ. Cái Quả đã có trước thì sự
linh nghiệm bài kệ là tất nhiên. Thể loại truyện thơ
thuộc về “tâm linh” này có lẽ là món ăn tinh thần
cho các Phật tử nhất tâm hướng thiện. Đọc thấy nhẹ
nhàng với cái kết có hậu, nhưng dụng tâm tác giả khi
dựng truyện lại vô cùng khó khăn…
Nếu bất cứ ai viết hồi
ký hoặc tự truyện, rồi bỏ tiền ra in sách lập tức
trở thành nhà văn, nhà thơ, xem ra định nghĩa về nó quá
sơ xài. Định nghĩa về nhà văn, nhà thơ rất mênh mông
nhưng không phải trong mớ bòng bong đó chẳng chút điểm
sáng cho các học giả, nhà phê bình căn cứ vào! Tính xác
thực của nhà văn, nhà thơ là: Những tác giả sở hữu
Tác Phẩm Văn Học, có thể thay đổi cách nhìn, cách sống
của quần thể số đông sẽ được xã hội công nhận
là nhà văn hay nhà thơ. Nhưng… tác phẩm văn học lại
là sản phẩm của trí tưởng tượng được sáng tạo
trên cơ sở thực tiễn. Như vậy, đời tác giả không
quá trăm năm sao có thể trải nghiệm hết cuộc mưu sinh
thăng trầm để thể hiện lên tác phẩm!? Vì vậy tác
phẩm văn học sẽ được người sáng tác vay mượn sự
kiện, hình ảnh, bối cảnh, con người… bất cứ nơi
đâu, bao gồm bản thân, người nhà, bạn bè, đối tác…
để hoàn thành một tác phẩm chỉ ra hiện tượng, sự
kiện hoặc bản chất có thể ảnh hưởng đến nhận
thức của cộng đồng. Đó là tác phẩm văn học. Đó là
tính nhân văn.
Sự vay mượn trong tác phẩm
Chuyện Lạ của tác giả Ruby Tran quá rõ ràng khi chọn
bối cảnh đất nước Trung Hoa thời nhà Đường để làm
nền. Tức nhiên đã là Trung Hoa thì nhân vật phải có
cái tên Hán mới hợp cảnh. Điển cố, điển tích Trung
Hoa ngập tràn khiến cả thế giới nghiêng mình ngưỡng
phục. Nó là mảnh đất mầu mỡ cho các tác giả trước
và sau năm 75 tha hồ khai thác. Nhưng để tận dụng hết
bối cảnh này, người sáng tác ít ra cũng nắm được
phong tục tập quán và các điển cố, điển tích Trung
Hoa cổ.
Bồ Tát Quán Thế Âm thường
hiện thân qua nhiều hình dạng để cứu khổ cứu nạn.
Gặp các đại nạn như: Nước. Lửa. Ma quỷ. Hung khí.
Người tu Phật thường cầu Quán Thế Âm ra tay trợ cứu.
Hình tượng Quán Thế Âm thường xuất hiện trong thần
thoại và tác phẩm văn học bác học. Trong các kinh sách
Phật giáo Đại thừa, Quán Thế Âm Bồ Tát huyền năng
chỉ sau Phật Tổ. Hình ảnh miêu tả và tứ thơ bộc lộ
thân phận tác giả là một Phật tử đã giác đạo tu
tâm, đề cao thiện phát, tích phúc hậu lai. Tác phẩm
nhấn mạnh cho bạn đọc thấy luật nhân quả trong phạm
trù thuyết Luân Hồi, một học thuyết lớn của nhà
Phật…
Tác giả Ruby Tran đã hư
cấu trong tác phẩm một tình huống khi nhân vật Lý Khôi
chiết giải bài kệ của Quán Thế Âm khi báo mộng:
“Lý
Khôi đọc thêm cho thuộc:
"Đong
đấu thóc ba thăng gạo
Gặp
ruồi xanh bu bút đầu"
"Ruồi
xanh bu, ứng sáng nay
Đấu
thóc không đủ, còn cám
Cám
đổi bộ chữ là Khang
Thiếu
bảy thăng chính là Thất"
Quay
hỏi: "Ông quen Khang Thất?"”
Một
Đấu có 10 Thăng. Nhưng cái đấu trong truyện tác giả
chỉ có 3 thăng, thiếu mất 7 thăng. Số 7, chữ đọc là
Thất. Trên vành đấu chỉ dính Cám hoặc đổ cám vào
cho đủ lượng. Chữ Khang (穅)
nghĩa là Cám, Trấu, thuộc bộ Hòa (禾)
nghĩa là Lúa. Theo tự điển Thiều Chửu và Trần Văn
Chánh chữ Khang gốc (糠)
thuộc bộ Mễ (米)
nghĩa là Gạo. Nhưng thông thường khi đặt tên con không
ai chọn nghĩa này. Nghĩa Khang (康)
hay nhất chính là Khỏe Mạnh mới đúng từ. Vậy khi đổi
bộ chữ, tức bỏ Hòa (禾)
hay Mễ (米)
sẽ ra chữ Khang (康)
chỉ tên người, thuộc bộ Nghiễm (广).
Ngay
tình huống hư cấu này hoặc tác giả vay mượn nơi nào
đó trong kinh sách, tích dân gian, qua lời kể người xưa,
hoặc tác giả có sự nghiên cứu chu đáo thông qua tự
điển. Để làm được điều này tác giả Ruby Tran trang
bị cho mình ít nhất là cơ sở hình thành chữ Hán và
biết qua lục thư, bộ thủ…
Đến
đây, bạn đọc mới thấy rằng, nhìn qua tác phẩm xem
như đơn giản nhưng để dàn dựng chỉ vài chi tiết thắt
gút và mở gút là cả một kỳ công…
Cái
khó cho người đọc trong việc thưởng thức truyện thơ
là làm quen với nhịp điệu. Thông thường thơ 6 chữ có
nhịp 2-2. Nhưng vì là truyện nên có lời dẫn thoại và
lời thoại. Tất cả độc giả yêu thích thể loại này
khi quen với tình huống mới thấy thú vị…
Điểm
nhỏ trong tác phẩm Chuyện Lạ khiến tôi nghĩ đến một
vấn đề thuộc về bối cảnh cho ra đời tác phẩm. Theo
tôi, tác giả Ruby Tran nên Việt hóa câu chuyện để tránh
sự nhạy cảm đang diễn ra trong xã hội hiện nay. Mảng
cổ tích Việt Nam vẫn nguyên sơ như mảnh đất mầu mỡ
cho các tác giả như Ruby Tran tha hồ khai thác, không cần
phải dựa vào bối cảnh đất Trung Hoa xưa. Điển hình
như Tấm Cám. Thạch Sanh, Lý Thông. Riêng Thạch Sanh, Lý
Thông có thể sáng tạo theo hướng kiếm hiệp Việt được.
Với một tác giả say mê văn học, đủ dũng cảm đối
đầu với thử thách sáng tạo, tôi nghĩ việc này không
thành vấn đề đối với Ruby Tran.
Ngược dòng lịch sử, tìm
về những tiêu chuẩn vàng một thời là giềng mối giá
trị đạo đức ngàn xưa, đề cao tính nhân văn có gì
sai!? Nếu như có người đi khai phá truy tìm cái mới tất
nhiên cũng có những tác giả như nhà thơ Ruby Tran, gạn
đục khơi trong, bảo lưu giá trị Chân, Thiện, Mỹ, đề
cao Thiện tính, tiêu trừ Ác nghiệp.
Hãy
trả văn học về Cách Nhìn Mở để từng thế hệ tiếp
nối nuôi dưỡng đam mê bằng loại Văn Học Cống Hiến
cho chính ngôn ngữ quê hương mình. Cho dù còn thiếu sót
bởi nhiều bất cập, nhưng không thể cản ngăn các cây
bút nhiệt huyết cất cao đôi cánh trên khoảng trời văn
hiến đất Việt. Con người vốn sống với Ứơc Mơ và
luôn biết cách vượt qua những lý thuyết màu xám để
thực hiện lấy hoài bảo…
Một
con bướm trắng đang bay. Và nhiều con bướm nữa sẽ
nhập đàn bay vào khu rừng đầy hoa dại. Cái kén tương
lai đang chờ…
Saigon
– 18.12.2022
MacDung
<macdungvh@gmail.com>