Lời giới thiệu của nhà thơ Kha Tiệm Ly:
Kính gởi quý báo,
Tôi hân hạnh đã đọc được những bài viết của GS Minh Di (Úc), và vô cùng thán phục kiến thức kinh người của GS. Nhờ đọc những bài viết nầy mà tôi mới thấy mình đã sai sót, quá yếu kém trong lãnh vực nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, xin quý độc giả đọc với sự dè dặt.
Tôi trân trọng gởi đến quý báo bài đầu tiên, quý báo tùy nghi sử dụng.
Kha Tiệm Ly
PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ III) - GS Minh Di
Sau hết, ở đầu đoạn dẫn trên Lê
Mạnh Thát ghi “….. năm
Hàm Hanh thứ ba (672)”, tức năm thứ 3 Niên hiệu này tương
ứng năm 672, thế nhưng, ở đoạn
cuối lại viết “.... năm Hàm Hanh thứ 3 (674)”, tức
năm thứ 3 Niên hiệu này nhằm năm 674, nói khác đi, cùng một thời điểm mà
sai biệt 2 năm!
Nguyên văn đoạn trên của Thích
Nghĩa Tĩnh:
- Vu thời
Hàm Hanh nhị niên, tọa Hạ Dương Phủ. Sơ Thu hốt ngộ Cung Châu sứ quân Phùng
Hiếu Thuyên, tùy chí Quảng Phủ, dữ Ba Tư bạch chủ kỳ hội Nam hành - Phục
mông sứ quân lệnh vãng Cương Châu, trùng vi đàn chủ, cập đệ Hiếu
Đản sứ quân, Hiếu Chẩn sứ quân, Quận quân Ninh thị, Quận quân Bành thị đẳng, hợp môn quyến thuộc hàm hiến tư tặng, tranh trừu thượng hối, các xả kỳ xan, thứ vô phạp ư hải đồ, khủng hữu lao ư
hiểm địa. Đốc như thân chi huệ, thuận Cấp Cô chi tâm. Cộng tác qui y, đồng duyên thắng
cảnh. Sở dĩ đắc thành lễ yết giả, cái Phùng gia chi lực dã! Hựu Lãnh Nam pháp tục cộng cảnh khứ lưu chi
tâm; Bắc thổ anh nho câu hoài sinh biệt chi hận.
Chí thập nhất nguyệt toại nãi diện Dực, Chẩn bội Phan Ngu, chỉ Lộc Viên nhi hà
tưởng, vọng Kê Phong nhi thái tức!
Vu thời quảng mạc sơ phiêu, hướng chu
phương nhi bách trượng song quải - lệ Cơ
sáng tiết, khí huyền sóc nhi ngũ
lưỡng đơn phi. Trường tiệt hồng minh, tự sơn chi đào hoành hải - tà thông cự hác, như vân
chi lãng thao thiên.
Vị cách lưỡng tuần, quả chi Phật Thệ. Kinh đình lục nguyệt, tiệm học thanh minh. Vương tặng chi trì
tống vãng Mạt La Du quốc (Kim cải vi Thất Lợi Phật Thệ dã). Phục
đình lưỡng nguyệt, chuyển hướng Kiệt Đồ.
Chí thập nhị nguyệt, cử phàm
hoàn thừa vương bạch, tiệm hướng Đông thiên hĩ!
Tòng Kiệt Đồ bắc hành thập nhật
dư, chí Lõa Nhân quốc. Hướng Đông vọng ngạn, khả nhất, nhị lý hứa, đản kiến gia
tử thụ, tân lang lâm sâm nhiên khả ái.
Bỉ kiến bạch chí, tranh thừa
tiểu đỉnh hữu doanh bách số, giai tương gia tử, ba tiêu cập đằng trúc
khí lai cầu thị dịch. Kỳ sở ái giả đản duy thiết
yên, đại như lưỡng chỉ, đắc gia tử hoặc ngũ hoặc thập.
Trượng phu tất giai lộ thể, phụ
nữ dĩ phiến diệp già hình. Thương nhân hí thụ kỳ y, tức tiện dao thủ bất dụng.
Truyền văn tư quốc đương Thục
Xuyên tây nam giới hĩ. Thử quốc ký bất xuất
thiết dịch quả kim, ngân, đản thực gia tử, thứ căn, vô đa
đạo cốc, thị dĩ lô ha tối vi trân
quí. (Thử quốc danh thiết vi lô ha).
Kỳ nhân dung
sắc bất hắc, lượng đẳng trung hình, xảo chức đoàn đằng sương, dư xứ mạc
năng cập. Nhược bất cộng giao dịch tiện phóng độc tiển, nhất
trúng chi giả vô phục tái sinh.
Tòng tư cánh bán nguyệt hứa,
vọng Tây bắc hành, toại đạt Đam Ma Lập
Để Quốc, tức Đông Ấn Độ chi Nam giới dã, khứ Mạc Ha Bồ Đề câp Na Lạn Đà khả lục thập dư dịch. Ư thử sáng dữ Đại Thừa Đăng Sư tương kiến,
lưu trú nhất tái , học Phạm ngữ, tập Thanh
Luận, toại dữ Đăng sư đồng hành, thủ chính Tây lộ, thương nhân sổ bách, nghệ Trung Thiên hĩ. Khứ
Mạc Ha Bồ Đề hữu thập nhật tại, quá đại
sơn trạch, lộ hiểm nan thông, yếu tạ đa nhân, tất vô cô tiến!
Vu thời Tĩnh nhiễm thời hoạn
thân thể bì luy, cầu chẩn thương đồ,
tuyền khốn bất năng cập, tuy khả lệ kỉ
cầu tiến ngũ lý chung tu bách tức! Kỳ
thời hữu Na Lạn Đà Tự nhị thập hứa tăng tính Đăng thượng nhân tịnh giai tiền
khứ, duy dư đơn kỷ, cô bộ
hiểm ải. Nhật vãn bô thời sơn tặc tiện chí, viện cung đại hoán, lai kiến tương
lăng. Tiên toát thượng y thứ trừu hạ phục, không
hữu thao đới, dịch tịnh đoạt tương! Đương thị thời dã, thực vị trường từ
nhân đại, vô hài lễ yết chi tâm, thể tán phong đoan bất toại bản cầu chi vọng! Hựu bỉ quốc tương truyền, nhược đắc bạch
sắc chi nhân, sát sung thiên
tế! Ký tư thử thuyết cánh chẩn vu hoài nãi nhập nê
khanh biến đồ hình thể, dĩ diệp già tế, phù trượng từ hành, nhật vân vãn hĩ,
doanh xứ thượng viễn!
Chí dạ lưỡng canh phương cập đồ lữ,
văn Đăng thượng nhân thôn ngoại trường khiếu! Ký kỳ tương kiến lệnh thụ nhất y trì nội tẩy
thân phương nhập thôn hĩ!
Tòng thử Bắc hành sổ nhật, tiên đáo
Na Lạn Đà kính Căn Bản Tháp, thứ thướng Kì Xà Quật kiến
điệp y xứ, hậu vãng Đại Giác Tự lễ chân dung tượng.
Sơn Đông đạo, tục sở tặng đà quyên, trì tác Như Lai
đẳng lượng Ca Sa, thân phụng phi phục.
Bộc Châu Huyền
luật sư phụ la cái sổ vạn, vi trì phụng thượng.
Tào Châu An
Đạo thiền sư ký bái lễ Bồ Đề tượng dịch vi lễ cật.
Vu thời ngũ thể bố địa nhất
tưởng kiền thành, tiên vị Đông Hạ tứ ân, phổ cập Pháp giới hàm thức! Nguyện “Long Hoa
Tổng Hội”, ngộ Từ Thị tôn, tịnh khế Chân
tông, hoạch vô sinh trí! Thứ nãi biến lễ thánh tích, quá phương trượng nhi giới Câu Thi,
sở tại khâm thành, nhập Lộc Viên nhi khoa Kê Lãnh.
Trú Na Lạn Đà Tự thập tái cầu
Kinh phương thủy tuyền chủng, ngôn qui hoàn Đam Ma Lập Để. Vị chí chi gian, tao
đại kiếp tặc, cận miễn trị nhận chi họa, đắc tồn triêu tịch chi mệnh! Ư thử thăng
bạch quá Kiệt Đồ quốc. Sở tương Phạm bản Tam Tạng ngũ thập vạn dư Tụng, Đường
dịch khả thành thiên quyển, quyền cư Phật Thệ hĩ!
/ Đại
Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện. Qu. Hạ /.
- Bấy
giờ là vào năm thứ 2 Niên hiệu Hàm Hanh, tôi đang ở trong mùa Kết Hạ tại Phủ Dương Châu. Tới đầu Thu thì bất ngờ gặp Sứ quân Cung Châu là
Phùng Hiếu Thuyên nên tiện dịp theo ông tới Phủ Quảng Châu, ước hẹn với thuyền
buôn Ba Tư đi xuống phương Nam - Lại thừa lệnh Sứ quân
đi Cương Châu, (ông) lại làm đàn chủ, cùng các em của ông là Sứ quân Hiếu Đản,
Sứ quân Hiếu Chẩn, cùng với bà Quận quân vợ ông họ Ninh, bà Quận quân vợ ông họ
Bành, tất cả bà con giòng họ của những
người này đều tới tặng tiền bạc, vật
dụng, tranh nhau mà đem dâng cúng, người nào cũng thí xả những món ăn lạ, mong rằng tôi sẽ không thiếu thốn trên đường biển, (tất cả) sợ
rằng tôi mệt nhọc ở chốn nguy hiểm!
(Ai nấy đều) thực lòng như tặng cho người thân, thuận tấm lòng của (Trưởng giả) Cấp Cô Độc. Mọi người rồi
cùng làm lễ qui y, cùng nương cảnh Phật. Việc lễ kính này có được tóm lại là
nhờ vào sức của nhà họ Phùng! Lại nữa (bản chất của) người Tăng, kẻ tục ở vùng
Lãnh Nam đều cùng nghẹn ngào trước
cảnh kẻ ở người đi; (bản chất của) bậc trí thức tài cao nơi phương Bắc ai cũng buồn
thương cho cảnh chia lìa giữa người sống.
Tới tháng 11 thì thẳng hướng
sao Dực, sao Chẩn mà lìa Phan Ngu, nhắm Lộc Viên mà lòng nghĩ miên man, ngóng Kê
Phong mà chép miệng than dài!
Bấy giờ gió bấc chớm thổi, dây neo thuyền 2 sợi treo lên, thuyền
về phương Nam - thời tiết chuyển tới phương vị sao Cơ
là lúc gió bắt đầu nổi, một chiếc thuyền đơn lẻ lìa phương Bắc, trên thuyền, những
chiếc lông gà phất phơ ở đầu cây
cần đo độ gió. Giữa khoảng mênh mông xa
thẳm những lượn sóng tựa núi nhấp nhô
trải ngang biển - trong
lòng sơn cốc rộng nghiêng, những làn sóng như mây giăng đầy trời.
Chưa tới 20 ngày rốt cục tới
thành Phật Thệ. Ở lại đây 6 tháng, học dần
ngôn ngữ.
Vua (xứ này) tặng cho tiền bạc,
vật dụng đưa tiễn tới nước Mạt La Du (Bây giờ đổi gọi là nước Thất
Lợi Phất Thệ). Lại ở lại đây 2 tháng rồi chuyển hướng qua
nước Kiệt Đồ.
Tới tháng Chạp thì giong
buồm, đi thuyền lớn của vua đi lần tới Ấn Độ.
Từ nước Kiệt Đồ theo hướng Bắc đi hơn 10 ngày thì tới nước Người
Lõa Thể. Nhìn về bờ ở hướng Đông
cũng vào khoảng 1, 2 dặm thì chỉ thấy rừng dừa, rừng cau xum xuê khả ái!
Dân kia thấy thuyền lớn tới thì
tranh nhau cỡi thuyền nhỏ, có đến cả
trăm chiếc, tất cả đều chở theo
dừa, chuối và những vật dụng đan bằng tre, mây tới để đổi chác. Vật mà họ thích nhất là sắt, 1 miếng sắt bằng 2 ngón tay thì
đổi được hoặc 5 hoặc 10 trái dừa.
Đàn ông thì tất cả đều lõa thể,
đàn bà thì dùng [vài cái] lá cây để che thân! Khách buôn giỡn lấy y phục cho
thì họ xua tay tỏ ý không dùng.
Cứ lời truyền thì nước này nằm ở địa giới mé Tây
nam của đất Thục Xuyên. Nước này đã không có sắt, lại ít vàng, bạc, (dân ở đây) chỉ ăn dừa, khoai mỡ,
họ không có nhiều lúa gạo, do đó sắt là thứ quí hơn hết! (Nước
này gọi sắt là lô ha).
Dân xứ này mặt mũi không đen, thân hình
vừa tầm, họ khéo đan những cái rương
tròn bằng mây, các xứ khác không xứ
nào đan khéo bằng. Nếu (người xứ khác) không chịu giao dịch với họ họ sẽ bắn
tên độc, người nào trúng tên này thì không cứu sống được!
Từ đây theo hướng Tây bắc, đi chừng hết nửa tháng thì tới nước Đam Ma
Lập Để, đây tức biên giới phía Nam
của miền Đông Ấn Độ, cách Mạc Ha Bồ Đề và Na Lạn Đà cũng tới hơn
60 trạm nghỉ.
Đây là nơi tôi gặp Đại Thừa
Đăng lần đầu tiên, lưu lại đây một năm học tiếng Phạn, tập ngữ pháp tiếng
Phạn, sau đó cùng đi với thầy (Đại Thừa)
Đăng, khách buôn cùng đoàn mấy trăm người, theo hướng chính Tây đi về miền
Trung Ấn Độ. Rời Mạc Ha Bồ Đề độ 10 ngày thì tới vùng núi non, ao đầm lớn, đường đi nguy hiểm khó qua được, phải có đông người cùng đi, không thể đi một mình được!
Bấy giờ (Nghĩa) Tĩnh
tôi nhiễm bệnh thời tiết, người mệt mỏi, gầy ốm, xin đi theo đoàn thương buôn, (nhưng) cứ khốn đốn luôn không theo
kịp đoàn; tuy tự khích lệ là phải cố vượt lên (cho kịp) nhưng cứ đi 5 dặm thì nghỉ
tới cả trăm lần. Lúc đó có lối 20 thầy
tăng ở Chùa Na Lạn Đà cùng với Đăng thượng
nhân đã ở đằng trước, chỉ mình tôi đơn
độc đi qua chỗ nguy hiểm! Tới chiều tối thì giặc núi đổ ra, cầm cung hò
hét tới cướp. Trước chúng lột áo trên, kế đến lột quần dưới, còn
mỗi cái đai lưng chúng cũng lấy luôn! Lúc bấy giờ quả thực
phải nói là nếu rời bỏ cõi người thì rồi không hợp với tâm nguyện đến bái yết
đất Phật, thân như chết đi dưới đầu gươm
dáo thì không đạt thành nguyện vọng của mình! Lại nữa, nước đó truyền nhau
rằng nếu bắt được người da trắng thì bọn họ
giết đi để tế trời! Nghĩ tới
truyền thuyết này thì đau đớn trong lòng, vì vậy tôi dầm mình trong hố bùn, lấy
bùn trét khắp người, lấy lá cây che thân, chống gậy đi từ từ, trời cũng đã tối, chỗ trú chân thì còn xa!
Tới tối, vào canh 2 mới gặp đoàn lữ hành, nghe Đăng
thượng nhân đang lớn tiếng kêu ở mé ngoài thôn! Lúc gặp nhau rồi thượng nhân
đưa tôi một bộ y phục nói tôi xuống ao tắm rửa đâu đó mới vào thôn.
Từ đây theo hướng Bắc đi mấy
ngày thì trước tới chùa Na Lạn Đà
lễ Tháp Căn Bản, kế lên Kỳ Xà Quật thăm nơi có (dấu tích) áo (Cà sa bằng
vải) bạch
điệp của Phật, sau đó đi Chùa
Đại Giác hành lễ tượng chân dung của Phật.
Tơ và vải người tăng kẻ tục ở
vùng Sơn Đông gởi tặng thì đem may
áo Cà sa vừa vặn với thân của Như Lai, và đích thân tôi bận cho tượng.
Luật sư Huyền ở Bộc Châu gởi phụ theo mấy chục ngàn cái
lọng may bằng thứ tơ mịn nhuyễn, để
dâng lên Phật.
Thiền sư An Đạo ở Tào
Châu đến hành lễ tượng Bồ Đề xong cũng dâng lễ đầy đủ.
Bấy giờ tôi 5 vóc mọp xuống đất,
một lòng chí thành, trước là tạ 4 ân cõi Đông
Hạ, sau trải khắp các hàm thức
trong Pháp giới! Nguyện trong “Tam Hội
Long Hoa” được gặp đức Từ thị,
trong mỗi Hội đều khế hợp thực lý của Chân như Pháp tướng, đạt được trí vô sanh! Kế tới là đi hành lễ
khắp các Thánh tích, ghé qua nhà cũ của Cư sĩ Duy Ma rồi đi qua nước Câu Thi,
đến chỗ nào (tôi) cũng cung kính, thành tâm, vào Lộc Viên, và vượt qua dãy Kê
Lãnh.
Tôi ở Chùa Na Lạn Đà 10 năm cầu
Kinh sau đó mới trở gót, nói là về
Đam Ma Lập Để. Chưa tới nơi thì gặp nạn lớn giặc cướp, may thoát được cái họa
gươm đao, giữ được cái mạng ngắn
ngủi. Tại đây tôi lên thuyền buôn đi Nước Kiệt Đồ. Tam Tạng Kinh Điển Phạn ngữ mang theo về gồm hơn 500,000 Tụng,
chuyển dịch ra Đường ngữ cũng đến
1,000 Quyển; do nơi tình thế tạm thời tôi ở lại Phật Thệ!
[Chú thích.
1). - “Thời tiết chuyển tới
phương vị sao Cơ là lúc gió bắt đầu nổi”.
Nguyên tác: “Lệ cơ
sáng tiết”.
Cuốn Vĩ thư “Xuân Thu Khảo Dị Bưu” ghi:
- “Nguyệt
thất kỳ hành, lệ vu Cơ giả phong”.
- “Mặt
trăng vận hành không đúng tiết điệu, vận hành tới vị trí sao Cơ thì gió nổi”.
2). Vải bạch điệp.
Xin coi chú thích 21). trong
phần “Những cái sai của Lê Mạnh Thát” ở trên.
3). Đông Hạ.
Tức miền Đông Trung Hoa, phiếm
chỉ Trung Quốc. Ấn Độ ở phương Tây, Trung Quốc ở phương Đông nên gọi “Đông Hạ”.
4). 500,000 Tụng.
Trong “Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện”,
Nghĩa Tĩnh cho biết:
- “Phàm
ngôn nhất Tụng nãi hữu tứ cú, nhất cú bát tự, tổng thành tam
thập nhị tự. Cánh hữu tiểu Tụng, đại Tụng, bất khả cụ thuyết”.
/ Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện.
Qu. IV. Tây phương học pháp 34 /.
- “Nói chung,
một Tụng
có 4
câu, mỗi câu 8 chữ, tổng cộng 32
chữ. Lại có tiểu Tụng, đại Tụng không nói hết
được”.
Trong mục “Định Không Và Định Pháp Sư” Lê Mạnh Thát viết:
- “Toàn Đường thi 333 tờ 3722 khi chép lại
các tác phẩm của Dương Cự Nguyên, đã chép bài có nhan đề Cung phụng Định pháp sư qui An Nam:
Quê hương
ngoài Nam
Việt
Muôn dặm núi
mây xa
Cửa trời kinh
luận vắng
Vào biển gặp
hương hoa
Sóng gợn cò soi bóng
Thành xây hến mấy tòa
Trường An lòng
nghĩ nhớ
Giao Châu
chuông đêm tà
(Cố hương Nam
Việt ngoại
Vạn lý bạch
vân phong
Kinh luận từ
thiên khứ
Hương hoa nhập
hải phùng
Lộ đào thanh
phạm triệt
Thần các hóa thành trùng
Tâm đáo Trường
An mạch
Giao Châu dạ
hậu chung)
(LSPGVN. trang 267, 268).
Bài thơ Lê Mạnh Thát dịch trên
đây có 2 cái sai rất nặng:
(1). Sóng gợn cò soi bóng.
Nguyên tác: “Lộ đào
thanh phạm triệt”.
Chữ “lộ” trong câu nghĩa là “con
cò”, thế nhưng chẳng có con cò nào ở đây hết!
2 chữ “lộ đào” có nghĩa là “sóng
nước”; sóng bạc nhấp nhô như con cò trắng bay lượn cho nên ghép chữ “lộ” để nói lên hình ảnh đó! Chỉ giản dị
có thế!
Chỉ giản dị có thế, chẳng con
cò nào “soi bóng” như
Lê Mạnh Thát tưởng tượng cả!
Mai Thặng (? - ?) đời Tây Hán
(206 tr Cn – 08) viết:
- “Diễn
dật, phiêu tật, ba dũng nhi đào khởi! Kỳ thủy khởi dã, hồng lâm lâm yên, nhược bạch lộ chi hạ tường!”.
/ Văn
Tuyển. Qu. XXXIV. Thất thượng. Mai Thúc Thất phát /.
- “Mênh
mông chảy gấp, gợn vọt mà sóng dậy! Lúc mới cuốn lên, thế ào ào đổ, dường cò trắng bay lượn xuống!
Lạc Tân Vương (? - ?) đầu đời
Đường (618 - 907):
Lộ đào khai
bích hải,
Phụng thể
chuyết từ lâm.
(Hạ nhật
du Đức Châu tặng Cao Tứ).
Sóng phau lan
biển biếc,
Lời đẹp điểm rừng văn.
+ Tóm lại, thấy tiếng “lộ đào”, “lộ” là “con cò”, “đào”
là “sóng nước” bỗng đâu, chợt đâu mà ý mà tứ trào ra, Lê Mạnh
Thát dịch luôn là “sóng gợn cò soi bóng” không chịu để ra một khoảng hở để suy nghĩ, để thắc
mắc!
Lê
Mạnh Thát không suy nghĩ, không thắc mắc để thấy môt chuyện hết sức đơn giản là chỉ ở mặt hồ, mặt ao, nước
lặng chim chóc, cảnh vật mới “soi bóng” được! Sóng nước cuốn ào ào, nổi bọt trắng xóa
thì làm thế nào chim chóc, cảnh vật “soi bóng” được đây!
(2). Thành xây hến
mấy tòa.
Nguyên
tác: “Thẩn các, hóa thành trùng!”.
Câu
dịch của Lê Mạnh Thát tối mò mò! Cái sự tối mò mò này
không có gì lạ hết, bởi lẽ chính Lê Mạnh Thát rồi không hiểu nguyên tác nói
cái chi nữa! Không hiểu thì làm sao câu dịch không tối mò mò cho được!
“Thành xây hến mấy toà”, tòa hến là
tòa gì đây?
Những
người không biết Hán văn rồi chẳng hiểu Lê Mạnh Thát nói cái gì? Bản thân đã
không hiểu thì làm sao làm cho người khác hiểu được!
Câu
này gồm 2 cặp, 4 chữ diễn tả một quan điểm quan trọng của Phật giáo, quan điểm
nhất thiết thế giới đều là hư huyễn, không thực!
1). Thẩn
các. Còn gọi thẩn lâu,
hay thẩn khí.
Thẩn (Thân + dấu Hỏi) Lê Mạnh Thát đọc sai là Thần (Thân +
dấu Huyền).
+
Có những lúc sóng êm, gió lặng, trên mặt biển, từ một điểm nhìn ra khoảng xa
xa, do hiện tượng ánh sáng chiết xạ mà tạo thành ảnh ảo những cung điện, thành
quách.
+
Người xưa cho rằng đây là do hơi (khí) của những loài trai, sò lớn (thẩn)
phả
ra mà thành hiện tượng này. Không chỉ ở trên biển, ở sa mạc cũng xảy ra hiện
tượng kể trên!
Trong
Kinh điển Phật giáo, cung điện hư ảo nói trên được gọi là Thành Càn Thát Bà,
là duyên thứ 5 trong 10 duyên gọi
là “Thập Duyên Sinh Câu”.
Trong
ngôn ngữ Trung Hoa có thành ngữ “hải
thị thẩn lâu” dùng để chỉ những gì hư ảo không thực!
Kinh
Hoa Nghiêm:
- “Phật tử, tỉ như Long
cung y địa nhi lập, bất y hư không. Long y cung trú dịch bất tại
không nhi năng hưng vân biến mãn không trung. Hữu nhân ngưỡng thị sở kiến cung điện đương tri
giai thị Càn Thát Bà thành, phi thị Long cung! Long tuy xử hạ nhi vân bố
thượng”.
/ Hoa
Nghiêm Kinh. Thập Định Phẩm
XXVII /.
- “Phật tử, ví như Long cung dựa nơi đất mà tạo lập, chẳng
dựa nơi hư không. Rồng ở trong cung cũng chẳng ở nơi hư không mà có thể nổi mây
đầy khắp trời. Có người nào nhìn lên (không
trung) thấy cung điện thì nên biết đây đều là Thành của Càn Thát Bà
chứ không phải là Long cung! Rồng tuy ở dưới nhưng mây giăng trên không”.
Lại
một đoạn khác:
- Tỷ
như tỳ khâu nhập biến
xứ định, nhược hành, nhược trú, nhược tọa, nhược ngọa tùy sở nhập định cảnh
giới hiện tiền.
Thiện
Tài đồng tử dịch phục như thị, nhập ư lâu
quán,
nhất thiết cảnh giới tất giai minh liễu!
Tỷ như hữu nhân ư hư
không trung kiến Càn Thát Bà Thành
cụ túc trang nghiêm tất phân biệt tri, vô hữu chướng ngại!
Tỷ như Dạ Xoa cung điện dữ nhân cung điện đồng tại nhất xứ nhi bất tương
tạp, các tùy kỳ nghiệp sở kiến bất đồng!
/ Hoa
Nghiêm Kinh. Nhập Pháp Giới Phẩm
XXXIX /.
- Ví như tỳ kheo nhập biến xứ định, lúc đi, lúc đứng, lúc
ngồi, lúc nằm, tùy định nhập mà tất cả cảnh giới đều hiện
ra trước mắt.
Thiện
Tài đồng tử cũng vậy, vào trong lầu gác thì tất cả cảnh giới đều thấy rõ cả!
Ví
như có người thấy thành
Càn Thát Bà ở giữa hư không có đầy
đủ sự trang nghiêm mà phân biệt biết rõ hết, không có chướng ngại!
Ví
như Cung điện của Dạ Xoa và
Cung điện của loài người cùng tại một chỗ mà không lẫn lộn, mỗi người đều tùy
nghiệp của mình mà thấy khác nhau!
+ Thập
Duyên Sinh Câu.
1/. Huyễn.
Huyễn thuật sư sở tác chi chủng chủng tướng mạo dã.
Huyễn
ảo. Các loại hình tướng do nhà ảo thuật tạo ra.
2/. Dương
diệm. Nhiệt không trần đẳng nhân duyên hòa hợp ư khoáng dã chi trung hiện
thủy tướng giả dã.
Ánh
nắng gắt. Trong không khí nóng ở khoảng đồng hoang bao la vi trần (phiêu
động) các nhân duyên hòa hợp mà hiện tướng nước.
3/. Mộng.
Thụy miên trung sở kiến chi chủng chủng cảnh giới dã.
Mộng.
Các loại cảnh giới thấy trong giấc ngủ.
4/. Ảnh.
Kính trung chi ảnh tượng dã.
Bóng. Cái bóng hiện trong
gương.
5/. Càn Thát Bà thành. Thẩn khí ánh nhật quang, ư đại hải
thượng hiện Cung điện chi tướng giả
dã.
Thành Càn Thát Bà. Hơi
của các loài trai sò lớn phả ra giao thoa với ánh nắng mà hiện thành hình những Cung điện trên mặt biển
bao la.
6/. Hưởng. Thâm cốc đẳng
trung y thanh nhi sinh chi thanh dã.
Tiếng vang. Âm thanh sinh ra từ
âm thanh phát ra trong các hang sâu.
7/. Thủy nguyệt. Thủy
trung sở kiến chi nguyệt ảnh dã!
Bóng trăng thấy trong nước!
8/. Phù lãng. Thủy thượng
sở kiến chi bào mạt dã.
Sóng nổi. Bọt nước thấy trên
mặt nước.
9/. Hư không hoa. Nhãn
mạc ư không trung sở kiến chi chủng chủng hoa dã.
Những đom đóm mà mắt thấy giữa
không trung.
10/. Tuyền hỏa luân. Nhân
dĩ hỏa lư tuyền chuyển không trung tắc sinh luân tượng.
Con người cầm lò lửa quay giữa khoảng không
thì thành hình cái bánh xe (lửa).
- “Dĩ
thượng “Thập duyên sinh câu” giai vi tòng duyên sinh, vô tự
tính chi nghĩa”.
/ Phật
Học Đại Từ Điển. Thập duyên sinh câu
/.
- “Trên
đây là “Thập duyên sinh câu”, đều tùy duyên mà sinh, không có tự tánh”.
Trung Hoa có thành ngữ “Hải
thị thẩn lâu” để chỉ những gì hư huyễn, không thực!
2). Hóa thành. Thành
huyễn hóa, không thực.
Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”:
~ “........ Tỉ như ngũ bách do tuần hiểm
nạn ác đạo, khoáng tuyệt vô nhân bố úy chi xứ! Nhược hữu đa chúng dục
quá thử đạo chí trân bảo xứ!
Hữu nhất
đạo sư thông huệ minh đạt, thiện
tri hiểm đạo thông tắc chi tướng, tương đạo chúng nhân dục quá thử nạn. Sở tương
nhân chúng trung lộ giải thoái, bạch đạo sư ngôn:
- Ngã đẳng
bì cực, nhi phục bố úy, bất năng phục tiến, tiền lộ do viễn, kim dục thoái
hoàn!
Đạo sư đa chư phương tiện nhi
tác thị niệm: Thử đẳng khả mẫn, vân hà xả đại trân bảo nhi dục thoái hoàn? Tác thị
niệm dĩ, dĩ phương tiện lực ư hiểm đạo trung tam bách do tuần hóa tác nhất Thành,
cáo chúng nhân ngôn:
- Nhữ
đẳng vật bố, mạc đắc thoái hoàn, kim thử đại thành khả ư trung chỉ tùy ý sở
tác. Nhược nhập thị Thành khoái đắc an ổn, nhược năng tiền chí bảo sở dịch khả
đắc khứ!
/ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Qu. XI. Hóa
Thành dụ Phẩm đệ thất /.
~ “......... Ví như có một xứ rộng
500 do tuần có nhiều sự kinh khủng, sợ hãi với những nguy hiểm, họa nạn, đường
đi nguy hiểm, hoang vu, tuyệt nhiên không có người ở! Có một đoàn nhiều người muốn đi qua đường này để tới xứ có nhiều
vật quí!
Có một người
dẫn đường thông minh trí huệ, hiểu sự lý, biết hình thế đường
đi chỗ nào hung hiểm, chỗ nào thông
chỗ nào nghẽn, đưa đoàn người muốn
vượt qua con đường (nhiều) hiểm nạn này. Đoàn người được dẫn đi tới giữa đường thì lười mỏi, chùn bước muốn
lui trở lại, nói với người dẫn đường:
- Chúng
tôi đã mệt mỏi lắm, lại sợ hãi không đi
tới được nữa, (đoạn) đường phía
trước thì còn xa, bây giờ chúng tôi muốn quay trở về!
Vốn có nhiều phương cách hay
người dẫn đường nghĩ thế này: Những người này thực đáng thương, sao lại từ bỏ
những vật rất quí mà toan quay trở về? Nghĩ xong điều này liền dùng sức
thần thông, nơi một vùng rộng 300 do tuần, giữa con đường nguy hiểm hóa
ra một ngôi Thành, nói với mọi người:
- Các
ông đừng sợ, không nên lui về, bây
giờ chúng ta có thể dừng lại nghỉ ngơi trong tòa Thành lớn này, muốn làm gì thì làm. Nếu vào Thành này thì rất
an ổn, nếu có muốn đi nữa tới chỗ các vật quí thì cũng có thể đi được!”.
Tiếp đến chúng ta hãy coi Lê
Mạnh Thát nói về quan chức Trung Hoa:
- “Cung
Phụng là một văn chức trong môn hạ tĩnh, tức gồm những người tham mưu cho hoàng
đế, như Tân Đường thư 47 tờ 2a6-7 cho
biết……”.
(LSPGVN2, trang 273).
Lê Mạnh Thát không biết rằng 2
chữ “Cung Phụng” không chuyên chỉ một chức vụ nào nhất định như Lê Mạnh
Thát viết tào lao.
Lê Mạnh Thát không biết rằng
tiếng “Cung Phụng”, hay rõ
hơn, “Cung Phụng Quan”, là danh xưng chỉ chung những chức quan kề cận
hoàng đế để làm nhiệm vụ chuyên môn của mình. Nói rõ hơn, tiếng “Cung phụng”
tự nó không phải là một chức vụ độc
lập như Lê Mạnh Thát viết hàm hồ!
Nhóm biên soạn Lý Lâm Phủ (? -
752) ghi trong “Đường Lục Điển”:
- “Cung
Phụng quan. Vị Thị
trung, Trung Thư lệnh, Tả / Hữu Tán kỵ Thường
thị, Hoàng môn, Trung thư Thị lang, Gián
nghị Đại phu, Cấp sự trung, Trung thư xá nhân, Khởi cư lang, Khởi cư xá nhân,
Thông sự xá nhân, Tả / Hữu Bổ khuyết, Thập di, Ngự sử Đại phu, Ngự sử Trung
thừa, Thị Ngự sử, Điện trung Thị Ngự sử”.
/ Đường Lục Điển. Qu. II.
Thượng Thư Lại Bộ /.
- “Cung
Phụng quan. Chỉ các chức: Thị trung, Trung Thư lệnh, Tả / Hữu Tán kỵ Thường thị, Hoàng môn, Trung thư
Thị lang, Gián nghị Đại phu, Cấp Sự trung, Trung thư Xá nhân, Khởi Cư lang,
Khởi Cư xá nhân, Thông sự Xá nhân, Tả / Hữu bổ
khuyết, Thập di, Ngự sử Đại phu, Ngự sử Trung thừa, Thị
Ngự sử, Điện trung Thị Ngự sử.
Bộ Tân Đường Thư chép:
- “Môn Hạ
Tỉnh.........
Tả Bổ khuyết lục
nhân, túng Thất phẩm thượng - Tả Thập di lục
nhân, túng Bát phẩm thượng, chưởng cung
phụng phúng gián đại sự, đình nghị, tiểu tắc thượng phong sự”.
/ Tân Đường Thư. Qu. XLVII. Bách quan
chí /.
- “Cơ
quan Môn Hạ Tỉnh.........
Chức Tả Bổ khuyết có 6
người, ngạch trật đứng trên trật túng (tòng) Thất phẩm - chức Tả Thập di
có 6 người, ngạch trật trên túng (tòng) Bát phẩm, chuyên việc can gián vua trong các việc lớn, trong
những buổi thảo luận của triều đình, về việc
nhỏ thì xét những việc sắc phong”.
Tới đây thì có thể thấy Lê Mạnh
Thát đâu có đọc bộ “Tân Đường Thư” như ông ta dẫn ở trên!
Cuốn “Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại Quan
Chế Từ Điển” giảng 2 chữ Cung phụng như sau:
- [Cung Phụng]. Tại hoàng đế tả hữu
cung chức giả đích xưng hô. Đường sơ hữu Thị Ngự sử
Nội Cung phụng, Điện trung Thị Ngự sử
Nội Cung phụng đẳng. Huyền
tông thời tuyển Văn học chi sĩ vi Hàn lâm Cung phụng chưởng Cung trung chế chiếu thư sắc, hậu
cải vi Hàn lâm học sĩ”.
/ Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại Quan Chế Từ
Điển. Cung Phụng /.
- [Cung Phụng]. Tiếng xưng hô những quan chức
làm nhiệm vụ của mình bên cạnh vua. Đầu thời
Đường có các chức Thị Ngự
sử Nội Cung phụng, Điện trung Thị Ngự
sử Nội Cung phụng. Thời Huyền
tông tuyển người trong giới Văn
học làm Hàn lâm Cung phụng nắm
giữ công việc soạn thảo chế thư, chiếu thư, sắc thư trong Cung,
sau đổi thành Hàn lâm Học sĩ”.
Và như vậy, tiếng Cung phụng
chỉ là tiếng thêm vào chức vụ của
một quan chức nhằm xác định quan chức này là người phục vụ trong Cung, làm việc
bên cạnh vua.
Cuốn “Cổ Kim Xưng Vị Ngữ Từ Điển”
viết:
- “[Cung Phụng]. Dĩ mỗ chủng kỹ nghệ thị phụng đế vương đích nhân.
Lệ: Thị Ngự sử Cung phụng / Hàn
lâm Cung phụng / Nội đình Cung phụng”.
- “[Cung Phụng]. Người dùng khả năng nào đó của mình để phục vụ bậc đế vương.
Thí dụ: Thị Ngự sử Cung phụng /
Hàn lâm Cung phụng / Nội đình Cung phụng”.
Cuốn “Trung Quốc Lịch Đại Chức Quan
Biệt Danh Từ Điển” nêu 3 trường hợp:
(1). Gián quan thuộc 2 cơ quan
Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh thường theo bên cạnh hoàng đế, giữ việc can gián
do đó tục gọi các quan chức này là “Cung Phụng Quan”.
(2). Cung Phụng là tên
gọi khác chỉ chung quan lại trong các Ty.
(3). Cung Phụng cũng là
tiếng phiếm chỉ Hoạn quan.
Lê Mạnh Thát viết:
Năm Đinh Mão Thiên Hựu thứ tư (907), Đại
Việt sử ký toàn thư ngoại kỷ 5 tờ 17b2-3 viết: ‘‘Khi ấy Lưu Ẩn chiếm cứ Phiên
Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm châu trị, xưng là Tiết độ sứ, chí nhắm
lật nhau. Năm ấy nhà Đường mất.’’. Thế là cả một trăm năm từ khi Định Không mất
(808) đến lúc Khúc Hạo lên làm Tiết độ sứ (907), là một thế kỷ đấu tranh hoành
tráng và bi hùng của dân tộc ta. Đây cũng là một thế kỷ đầy những thảm bại nhục
nhã của quân đội thiên triều, trước khí thế đấu tranh ngùn ngụt của quân dân
khởi nghĩa. Nó đồng thời cũng phản ánh nỗi rên xiết khổ đau quằn quại của dân
chúng Trung Quốc.
Nỗi thất bại nhục nhã và đau khổ ấy đã thể hiện trong một bài thơ do Toàn Đường thi 784 tờ 531 chép lại. Bài thơ này Toàn Đường thi ghi là do ‘một cử nhân An Nam viết’, và không cho biết là tên gì. Tuy nhiên, An Nam chí lược 16 tờ 157 lại ghi là do Bì Nhật Hưu viết trách Lý Trác với tên Chê trách ngược chính của đô hộ Lý Trác làm dân phản. Nội dung thật sự tả cảnh thảm bại của quân đội Trung Quốc và việc người dân Trung Quốc bị bắt lính, thu lương, bóc lột đến tận xương tủy bởi những tên vua hiếu chiến, dốc hết mọi sinh mạng dân Trung Quốc vào lò lửa đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Cho nên, bài thơ này khó mà có thể do những danh sĩ Trung Quốc đương quyền như Bì Nhật Hưu viết ra
Nỗi thất bại nhục nhã và đau khổ ấy đã thể hiện trong một bài thơ do Toàn Đường thi 784 tờ 531 chép lại. Bài thơ này Toàn Đường thi ghi là do ‘một cử nhân An Nam viết’, và không cho biết là tên gì. Tuy nhiên, An Nam chí lược 16 tờ 157 lại ghi là do Bì Nhật Hưu viết trách Lý Trác với tên Chê trách ngược chính của đô hộ Lý Trác làm dân phản. Nội dung thật sự tả cảnh thảm bại của quân đội Trung Quốc và việc người dân Trung Quốc bị bắt lính, thu lương, bóc lột đến tận xương tủy bởi những tên vua hiếu chiến, dốc hết mọi sinh mạng dân Trung Quốc vào lò lửa đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Cho nên, bài thơ này khó mà có thể do những danh sĩ Trung Quốc đương quyền như Bì Nhật Hưu viết ra
Bài thơ như sau:
Khiến Giao Châu ta đỗ
Liên miên ba bốn năm
Để nhục lại Trung Hạ
Kẻ nhát đánh liền lui
Nhàm chán lính hùng hổ
Quân nhu bòn rút dân
Vàng ngọc tướng đánh đá
Khoét xương tủy dân đen
Chia ăn đám tướng tá
Hùng hổ tướng Hứa Xương
Trung dũng đứng đầu sổ
Muôn kỵ đi như gió
Đến làm sông thịt cả
May có tàn tốt về
Khóc vang ngàn vạn hộ
Tiếng buồn khắp xóm thôn
Khí oán đầy sơn dã
Trống trận ai thể nghe
Mưa gươm trông không nỡ
Nghĩ tới than cùng ai
Sông Dĩnh xanh ngát cả’’.
(LSPGVN2.
tr. 371, 372).
Bài thơ trên đây “Toàn Đường Thi” đã sao lục từ bộ bút kí “Bắc Mộng Tỏa Ngôn” của Tôn Quang Hiến (? - ?) thời Ngũ Đại (907 -
960).
Vì lẽ Tôn Quang Hiến không ghi tựa bài thơ
cho nên ban biên tập Toàn Đường Thi
đã căn cứ nội dung bài thơ, và lời tự thuật của Tôn Quang Hiến, mà đặt tựa đề cho bài thơ là “Thích An
Nam Sự Thi”, và ghi tác giả là “Ý Tông triều cử tử”.
Tôn Quang Hiến viết:
- “Lý Trác hậu trấn thị bang
dụng pháp đại khốc, quân
thành viễn xuất nhi thuộc
An Nam , lục thất
niên gian lao động binh dịch. Hàm Thông thất niên Cao Biền thu phục chi.
Tiên thị, Kinh, Từ gian chinh dịch
cự man, nhân thậm khổ chi! Hữu cử tử
văn Hứa tốt nhị thiên một ư man hương, hữu thi thích chi viết:………
Ngâm thử Thi hữu dĩ kiến thất ư
thụ nhiệm vi quốc gia sinh sự, Đại Đông chi khổ tư kỳ loại hồ?”
/ Bắc Mộng
Tỏa Ngôn. Qu. II. Thụ nhiệm trí khấu
/.
- Về sau Lý Trác
tới trấn nhiệm nước này, áp dụng luật
pháp cực tàn bạo, thành trì quân
binh trấn đóng thì xa, lại ở trên đất An Nam, việc chinh chiến khổ nhọc 6, 7 năm liền. Tới năm thứ 7 Niên
hiệu Hàm Thông Cao Biền mới thu phục lại được!
Trước đó việc chiến tranh chống dân Man ở
các vùng Kinh châu, Từ châu làm dân rất khổ. Có một học trò đi thi nghe 2,000 quân
binh thành Hứa Xương chết nơi
đất Man thì làm 1 bài thơ chỉ trích
việc này:………
Ngâm bài Thơ này thì thấy việc trao trách
nhiệm cai trị không đúng người rồi khiến
cho quốc gia xảy ra chuyện, cảnh khổ ở vùng Đại Đông rồi chẳng như việc này
sao?”.
(KỲ
4, chót)
< Những cái sai của Lê Mạnh Thát trong đoạn
trên.
Trước hết, Lê Mạnh Thát dịch tiếng “cử
tử” là “cử nhân” là sai!
Cử tử là người học trò đi thi.
Kế đến, về bài thơ, Lê Mạnh Thát có một số
câu dịch không chỉnh, dịch sai:
Câu 4: nguyên tác là “Trí ngã Giao Chỉ nhục”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Để nhục lại Trung Hạ”.
Câu này phải dịch là: “Khiến ta nhục
Giao Chỉ”.
Vì không chọn quan lại cai trị tài đức nên
đưa tới mối nhục bại trận ở Giao Chỉ.
Câu 7: Nguyên tác là “Quân dung mãn thiên hạ”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Quân nhu bòn rút dân”.
Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa
tiếng “Quân dung” như sau:
- “[Quân dung].
(1). Quân đội đích nghi dung.
Chỉ quân đội đích lễ tiết, phong kỷ cập trang bị.
(2). Quân chức”.
- “[Quân dung].
(1). Pháp tắc qui củ của quân đội.
Chỉ quân cách, kỷ cương phép tắc và những trang bị của quân đội.
(2). Chức vị quân đội.
Cứ như giảng nghĩa trên đây thì “quân dung” chỉ quân
đội với tất cả những qui định về các phương diện Hành chánh, Quân
phong, Quân kỷ, rồi Quân trang, Quân dụng - tức vũ
khí, giáp trụ.....), tóm lại là tổ chức Quân đội. Tóm lại, ở đây tiếng “quân
dung” nhằm chỉ Quân đội nói chung.
Và như vậy, câu trên có thể
dịch là: “Quân binh khắp thiên hạ”.
Cứ đó thì thấy câu 7 này không có ý nào là
“bòn rút dân” như Lê Mạnh Thát dịch
hết!
Câu 8: “Chiến
tướng đa kim ngọc”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Vàng ngọc tướng đánh đá”.
Câu này dịch đúng là “Chiến tướng nhiều
vàng ngọc”.
Ý nói ở trên thì các
tướng chỉ huy vơ vét, chia nhau vàng ngọc trong khi ở dưới thì dân bị bắt làm
dân phu phục vụ cho chiến tranh, bỏ phế việc làm ăn sinh sống.
Có thể thấy ở đây không có ý nào nói chuyện
các tướng “đánh đá” hết!
Câu 9: “Quát
đắc tề dân thương”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Khoét xương tủy dân đen”.
Dịch là: “Lột đến dân thân cùng”.
Chữ “quát”
nghĩa là “mài”, là “tước đoạt”, chữ “thương”
(Bộ Tật = bệnh) là “ung nhọt”.
Câu 13: “Khứ
vi vạn kỵ phong,
Câu 14: “Trú
vi nhất xuyên nhục”.
Lê Mạnh Thát dịch: “Muôn
kỵ như gió đi,
Đến
làm sông thịt cả”.
Tương đối sát nguyên tác là:
“Đi là muôn vó uy,
Về là một sông thịt”.
Chữ “trú” ở đây
có nghĩa “ngừng lại, đình chỉ” - ở đây ý nói lúc tàn cuộc chiến, lúc đem quân
trở về.
2 câu này diễn tả lúc quân lên
đường thì rần rộ cả vạn kỵ binh, uy thế mạnh mẽ, ào ào như gió cuốn, lúc
tàn
cuộc chiến thì thây trôi đầy sông, xác phơi đầy đồng.
(Chữ “xuyên” có
nghĩa là “sông”, mà cũng có nghĩa là “đồng
bằng”).
Câu 15: “Thời hữu
tàn tốt hồi”.
Lê Mạnh Thát dịch: “May có
tàn tốt về”.
Chính xác là: “Chừng có tàn
quân về”, hoặc “chừng lính sống sót về”.
Chữ “thời” có
nghĩa là “chừng, lúc”,
không phải là “may” như Lê Mạnh Thát hiểu.
Câu 20: “Bất nhẫn
khán kim tộc”.
Lê Mạnh Thát dịch: “Mưa
gươm trông không nỡ”.
Đúng phải dịch là: “Chẳng nỡ
nhìn tên cứng”.
Chữ “kim” ở đây
nghĩa là “cứng”, hàm ý cứng nhọn; hiểu là “kim loại” cũng
thông.
Chữ “Tộc” (Bộ Kim [vàng] + chữ Tộc [gia tộc]) nghĩa là:
1). Đầu mũi tên, tức mũi
nhọn của tên.
2). Mũi tên vút nhanh, mạnh.
Nghĩa sau này Từ điển Từ
Nguyên giải nghĩa là:
- “2. Chỉ
tiển khinh nhuệ”.
- “2.
Chỉ mũi tên (bay đi) nhanh, mạnh”.
(Nhuệ có nghĩa là “nhọn,
sắc”, mà cũng có nghĩa “nhanh, mạnh” [tấn mãnh]).
Ở đây chẳng có “mưa”, cũng
chẳng có “gươm” như Lê Mạnh Thát dịch bậy!
Tôi đến không rõ từ đâu mà Lê
Mạnh Thát dịch “đứng” thành 2 chữ “mưa gươm”?
Câu 21: “Niệm
thử kham lệ lưu”.
Lê Mạnh Thát dịch: “Nghĩ
tới than cùng ai”.
Chính xác phải dịch là: “Nhớ
chuyện lệ chẳng ngăn”.
Câu này nói “nhớ tới cuộc
chiến này thì chẳng ngăn được nước mắt”.
Có “ai” đâu ở đây mà Lê Mạnh Thát dịch?
Sau hết, Lê Mạnh Thát nói là “bài thơ này khó
mà có thể do những danh sĩ Trung Quốc
đương quyền như Bì Nhật Hưu viết ra”.
+ Nếu Lê Mạnh Thát nói thế thì điều này có
nghĩa bài “Thích An Nam Sự Thi” ở
đây là của một người Giao Chỉ “yêu nước” nào
đó, thời đó sáng tác! Nếu thế thì lập luận của Lê Mạnh
Thát chỉ có thể đưa đến kết luận sau đây:
Người Giao Chỉ sau 973 năm bị Trung Hoa cai
trị thì chợt đâu hóa thương kẻ xâm lăng như
thương người nước mình, hoặc rõ hơn, người bị trị và kẻ cai trị rồi chỉ
là một - tức kẻ bị trị đã đồng
hóa với kẻ cai trị - Đây là suy nghĩ
của thực dân, tôi không nghĩ đây là kiến giải của Lê Mạnh Thát, một kiến giải
rất sai lạc, như Lịch sử Việt Nam đã cho thấy hết sức là rõ - Người Việt Nam không bao giờ là người Trung Hoa! Nếu là Trung Hoa ngày
nay đã chẳng có một nước gọi là Việt Nam !
Ở đây không có bất cứ một điểm nào cho phép
kết luận là bài thơ nói trên là của người Giao Chỉ làm ra hết! Đất Giao Chỉ vốn
là đất người Trung Hoa chiếm và coi như của họ do đó nếu như có một “cử tử”
người Trung Hoa nào khóc than về tình hình Chiến tranh tại “một mảnh đất của họ” thì đây
cũng là chuyện dễ hiểu, dễ chấp nhận!
Hơn nữa, bài thơ ở đây nhằm để thương tiếc 2,000 quân binh thành Hứa Xương - tức quân binh của Trung Quốc điều
động qua Giao Chỉ, cho nên nếu lập
luận “cử tử” ở đây là một người Trung Hoa rồi dễ được chấp
nhận hơn là lập luận ngược lại!
Về mặt lập luận chỉ cần có một sơ hở nhỏ
thôi lập luận sẽ mất chỗ đứng [lập], để thành những lời nói vu vơ, vớ vẩn, hà
huống sơ hở ở đây lại quá lớn!
Ở đây có thể thấy Lê Mạnh Thát muốn nói bài
thơ này là của 1 người Giao Chỉ ái quốc làm ra để nói lên sự tàn bạo của triều
đình Trung Quốc.
Lê Mạnh Thát nói chuyện ái quốc, tôi nói
chuyện yêu nước cho Lê Mạnh Thát nghe.
Đất Giao Chỉ là của người Giao Chỉ, Trung
Hoa đưa quân qua chiếm đóng, sáp nhập lãnh thổ của họ. Bây giờ giặc Nam Chiếu tràn qua cướp bóc xứ
Giao Chỉ, Trung Quốc liền điều động quân binh các đất Hứa, Hoạt, Từ, Biện,
Kinh, Tương, Đàm, Ngạc - cộng tất cả là
30,000 quân lên đường giải vây. 2,000 quân binh thành Hứa Xương rồi tử trận
không sót người nào!
(Về việc điều động 30,000 quân các đất Hứa,
Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc kể trên, tham
khảo phần chú giải của Hồ Tam Tỉnh (1230 -
1302), Nguyên triều :
~ Tư Trị Thông Giám. Qu. CCL. Ý tông.
Hàm Thông tam niên, nhị nguyệt).
Và bỗng dưng có một anh chàng “cử tử”
xứ Giao Chỉ ở đâu nhảy xổ ra làm thơ thương tiếc 2,000 quân binh này! Điều mà ai cũng biết là Trung Quốc điều động
quân binh qua đánh quân Nam Chiếu, giải vây Giao Chỉ, là nhằm tiếp tục cai
trị xứ này, hiển nhiên! Bây giờ có một anh chàng “cử tử” ở đâu
nhảy xổ ra làm thơ than khóc
quân của kẻ thù đang chiếm đóng nước mình, vậy thì có khác gì tiếc cho quân của kẻ thực dân kia sao không thắng để
tiếp tục cai trị đất nước mình! Lòng “yêu nước” chi mà quái đản tới vậy
Lê Mạnh Thát!!! Trên đời này lại có một thứ yêu nước lạ lùng đến thế sao?
(Hán
Vũ đế xâm chiếm nước Nam Việt
vào mùa Thu năm 111 trước Công
nguyên, và đất Giao Chỉ là một phần của
nước này, tới năm 862, năm Nam Chiếu, một lần nữa, đã tràn qua đánh phá
Giao Chỉ thì Trung Hoa đã cai trị Giao Chỉ được 973 năm).
Bài thơ ở đây nhằm bày tỏ lòng thương tiếc 2,000 quân binh
tại thành Hứa Xương của Trung Hoa tử trận ở Giao Chỉ, Lê Mạnh Thát đã không thấy được điểm quan trọng này cho
nên mới lập luận sai lạc, ngớ ngẩn, như đã chứng minh!
¸ Mấy
giòng về bài “Thích An Nam Sự Thi”.
Bài thơ có tựa “Thích An Nam Sự Thi” nói
trên được ghi lại trong Qu. DCCXXCIV (784) trong Tổng tập “Toàn
Đường Thi”.
Ở đây, ban biên tập “Toàn
Đường Thi” đã lầm lẫn trong việc tập lục là trước đó, ở đầu Qu. DCVIII (608) đã thu lục 3 bài thơ của Bì Nhật Hưu (~ 834 - ~ 883) có tựa đề chung là “Tam
Tu Thi”, và đối chiếu
thì thấy Bài “Thích An Nam Sự Thi” không gì khác hơn là bài “Tu
Thi” thứ 2 trong 3 bài đã kể, chỉ khác một điều là bài “Tu
Thi” 2 có tất cả 34 câu trong khi bài “Thích An Nam
Sự Thi”, như đã rõ, chỉ có 22 câu, và 2 bài có một vài chữ chép
khác, do sự sao đi chép lại, không đáng kể.
Nhóm biên tập “Toàn Đường Thi” phân ra sưu tập, thu
lục sau khi hoàn thành sách đã không có
thời giờ kiểm lại những bài trùng để lược bỏ bài “Thích An Nam Sự Thi”.
Lê Tắc (? - ?) trong tác phẩm “An Nam Chí Lược” (Qu. XVI. Lịch đại
danh hiền tạp đề) cũng ghi lại bài thơ kể trên, và cũng chỉ có 22 câu (thiếu 12 câu, từ câu 21 đến câu 32) như bài ghi trong “Bắc Mộng Tỏa Ngôn”, hơn nữa còn có 17
chữ chép khác.
Ngoài ra, 3 bài “Tam
tu thi” còn thấy trong “Bì Tử Văn Tẩu” (Qu. X. Thi.
Tam Tu thi).
Vì vậy, có thể nói mà không sợ
sai lầm là bài “Tu Thi” 2 của Bì Nhật Hưu đã được
trích dẫn trong một Sách nào đó, và đã bị ngắt đi mất 12
câu (từ câu 21 đến câu 32) để làm dẫn chứng cho một vấn đề chính sự. 12
câu bị ngắt đi này thuần trình bày
về bản thân và cảm nghĩ của Bì Nhật
Hưu - không
cần thiết cho mục tiêu của sự dẫn chứng, vì vậy người sử dụng đã ngắt đi. Và “Bắc
Mộng Tỏa Ngôn” của Tôn Quang Hiến cũng chỉ đã dẫn lại bài thơ từ Sách nào đó.
Vũ Thượng Thanh (Trung Hoa) khi
điểm hiệu tác phẩm “An Nam Chí Lược” đã căn cứ bài “Tu Thi 2” trong
tập “Bì
Tử Văn Tẩu” đã dẫn trên mà bổ túc 12 câu thiếu.
*
Cứ thế
Lê Mạnh Thát sai dài dài về Hán văn, đoạn dịch nào Lê Mạnh Thát
cũng sai, và sai ở những lỗi căn bản nhất về ngôn ngữ này.
Nhưng, có lẽ chuyện quan trọng hơn hết là dầu biết khả năng Hán văn của mình chưa tới đâu Lê Mạnh Thát chẳng quan tâm, vì
mục tiêu của Lê Mạnh Thát rồi không phải ở Học thuật. Ông Lê Mạnh
Thát chỉ thích lý luận! Và lý luận của Lê Mạnh Thát trong cuốn LSPGVN là cái lý luận gọi là “lý luận trung tâm”, hay
“lý luận xuôi xị” mà tôi đã cho thấy rất rõ trong 2 bài phê bình trước
bài này.
Kiến thức Phật giáo, khả năng ngôn
ngữ (Hán
văn) thì như tôi đã chứng minh, vậy mà Lê Mạnh Thát lại ưa lý luận, bóp
méo sự kiện để cố đưa vào cái khung thiên kiến - hay viết theo đơn đặt hàng
của ai đó, đây là chuyện đáng nói nhất!
Đọc những lý luận trong tập LSPGVN người đọc nghe đâu văng vẳng trong đầu
những câu lùng bùng nhĩ căn như “nhân dân ta anh hùng”, “trí tuệ ta
là đỉnh cao”……
Nhưng, Lê Mạnh Thát quên
một chuyện quan trọng là nếu kiến thức căn bản không có có lý
luận
chiều nào, hướng nào nữa thì với thức giả những lý luận này đến chẳng
làm dấy
lên 1 hạt bụi nào - hoặc nói theo Phật giáo là
không làm dấy lên 1 vi trần nào cả!
Minh Di.
31 tháng 8 năm 2011.
Ngày cuối cùng Mùa Đông Úc
Châu.
Thư Mục.
[1]. Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao.
Đường. Sa môn Trừng Quán soạn
thuật.
Tài Đoàn Pháp Nhân Phật Đà Giáo
Dục Cơ Kim Hội (ĐL) Dân Quốc 86 niên
(1997).
[2]. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Tùy. Trí Ngải sớ.
Đường. Trạm Nhiên ký.
Tống. Đạo Uy nhập sớ.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
(TQ) 1994 / 3.
[3]. Chú Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh.
Hậu Tần. Tăng Triệu đẳng chú
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1995 / 2.
[4]. Đại Đường Tây Vực Ký Hiệu Chú.
Đường. Huyền Trang. Biện Cơ.
Quí Diễn Lâm đẳng hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2008 / 4.
[5]. Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao
Tăng Truyện Hiệu Chú.
Đường. Thích Nghĩa Tĩnh.
Vương Bang Duy hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / 3.
[6]. Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện Hiệu
Chú.
Đường. Thích Nghĩa Tĩnh.
Vương Bang Duy hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / 2.
[6]. Pháp Uyển Chu
Lâm Hiệu Chú.
Đường. Thích Đạo Thế.
Chu Thúc Ca. Tô Tấn Nhân hiệu
chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2006 / 2.
[7]. Phật Học Đại Từ Điển.
Dân Quốc. Đinh Phúc Bảo.
Phúc Kiến Bồ Điền Quảng Hóa
Tự Phật lịch 2534 / Công nguyên
1990. [1921 / Sơ].
[8]. Tông Giáo Từ Điển.
Nhiệm Kế Dũ chủ biên.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản
Xã 1981 / Sơ.
[9]. Tư Trị Thông Giám.
Bắc Tống. Tư Mã Quang.
Nguyên. Hồ Tam Tỉnh chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1987 / 7.
[10]. Cựu Đường Thư. (1).
Ngũ Đại. Lưu Hu.
[11]. Tân Đường Thư. (2).
Triệu Tống. Âu Dương Tu.
Nhị Thập Ngũ Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1991 / 8.
[12]. Thông
Điển.
Đường. Đỗ Hựu.
Thập Thông Bản.
Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 2000 / Sơ.
[13].
Tiên Tần Chư Tử Hệ Niên (Tăng
định Bản 1956).
Tiền Mục.
Tiền Mục.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1985 / Sơ bản.
[14]. Luận Ngữ Tập Chú.
Nam Tống. Chu Hi tập chú.
Thái Bình Thư Cục (HC) 1986 / 7.
[15]. Thủy Kinh Chú Sớ.
Nam Bắc
triều - Bắc Ngụy. Lịch Đạo Nguyên Chú.
Dân
Quốc. Dương Thủ Kính. Hùng Hội Trinh Sớ.
Giang Tô Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1999 / 2.
[16]. Cổ Đại Nam Hải Địa Danh Vị Thích.
Trần Giai Vinh. Tạ Phương. Lục Tuấn Lãnh.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2002 / 2.
[17]. Tây Vực Nam Hải Sử Địa Khảo Chứng Luận Trứ
Vị Tập.
Dân Quốc. Phùng Thừa Quân.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1976 / Sơ.
[18]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập (Nhị
sách. Tần. Tây Hán. Đông Hán).
[19]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập (Ngũ
sách. Tùy. Đường. Ngũ Đại Thập Quốc).
Đàm Kỳ Tương chủ biên.
2 Tập Lịch sử Địa đồ ghi số
hạng [18]. [19] trên đây:
Trung Quốc Địa Đồ Xuất Bản Xã
(Tinh trang Bản) 1996 / 2.
[20]. Đường Lục Điển.
Đường. Lý Lâm Phủ.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1992 / Sơ.
[21]. Trung Quốc Lịch Đại Chức Quan
Biệt Danh Từ Điển.
Cung Diên Minh.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản
Xã 2006 / Sơ.
[22]. Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại
Quan Chế Từ Điển.
An Tác Chương chủ biên.
Tề Lỗ Thư Xã 1990 / Sơ.
[23]. Trung Quốc Độ Lượng Hành Sử.
Dân Quốc. Ngô Thừa Lạc.
Thượng Hải Thư Điếm (TQ) 1984 / Sơ.
[24]. Lễ Thư Thông Cố.
Thanh. Hoàng Dĩ Chu.
Vương Văn Cẩm điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2007 / Sơ.
[25].
Xuân Thu Khảo Dị Bưu.
Vĩ
Thư Tập Thành Bản.
Nhật Bản. An Cư Hương Sơn. Trung Thôn Chương Bát tập lục.
Hà Bắc Nhân Dân
Xuất Bản Xã 1994 / Sơ.
(Vĩ Thư là danh xưng chỉ chung những sách viết ra nhằm giải rộng ý nghĩa của Kinh, chủ yếu căn cứ Kinh nghĩa Nho
gia, người thời Hán soạn, nhưng thác danh Khổng Tử (551 - 479 tr. Cn). Nội dung Vĩ Thư luận đoán họa
phúc, cát hung, suy trắc lẽ hưng
phế và trị loạn của nhân sự, hầu hết là
thêm thắt, với những luận đàm quái đản, vô căn cứ.
Danh xưng VĨ là nhằm đối với danh xưng KINH - như những sợi dệt dọc (Kinh) giao những sợi dệt ngang (Vĩ) trên một tấm vải. Thời Hán
có 7 tác phẩm được liệt vào hàng
KINH: - Dịch. Thư. Thi. Lễ. Nhạc. Xuân
Thu. Hiếu, do đó Vĩ Thư cũng có Thất Vĩ, và mỗi Vĩ lại phân nhiều tập, mỗi tập có một danh xưng khác. Vì lượng các Tập khá nhiều không tiện nêu hết
ra đây, tôi chỉ nêu tổng số Tập của mỗi Vĩ
Thư như sau:
~ *Dịch 28 Tập. Thư 29. Thi 04. Lễ 04.
Nhạc 04. Xuân Thu 29. Hiếu
Kinh 15).
[26]. Sơ Học Ký.
Đường. Từ Kiên đẳng.
Tư Nghĩa Tổ điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2004 / 2.
[27]. Bắc Mộng Tỏa Ngôn.
Ngũ Đại. Tôn Quang Hiến.
Giả Nhị Cường điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2006 / 2.
[28]. Sự Vật Kỷ Nguyên.
Bắc Tống. Cao Thừa.
Minh. Lý Quả đính.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 1989 / Sơ.
[29]. Sở Từ Bổ Chú.
Đông Hán. Vương Dật chú.
Nam Tống. Hồng Hưng Tổ bổ chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2006 / 5.
[30]. Văn Tuyển.
Nam Bắc triều – Lương. Chiêu
Minh Thái Tử (Tiêu Thống) tuyển.
Đường. Lý Thiện chú.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1977 / trùng ấn.
[31]. Toàn Đường Thi.
Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc
soạn.
+ Toàn Đường Thi Dật. Nhật Bản. Thượng Mao Hà Thế Ninh toản tập.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã
(TQ) 1986 / Sơ.
[32]. Đỗ Thi Kính Thuyên.
Đường. Đỗ Phủ.
Thanh. Dương Luân tiên chú.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản
Xã 1998 / 2.
[33]. Hàn Xương Lê Văn Tập.
Đường. Hàn Dũ.
Thanh. Mã Thông Bá chú.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1975 / Trùng ấn.
[34]. Bì Tử Văn Tẩu.
Đường. Bì Nhật Hưu.
Tiêu Địch Phi. Trịnh Khánh Đốc chỉnh lý.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1981 / Sơ.
[35]. Vương Lâm Xuyên Toàn Tập.
Bắc Tống. Vương An Thạch.
Quảng Trí Thư Cục (HC) (Nhà Xuất bản này không bao giờ
ghi năm xuất bản).
[36]. Cổ Kim Xưng Vị Ngữ Từ Điển.
Trách nhiệm Chủ biên. Lý Giai Tuấn.
Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản Xã
(TQ) 1988 / Sơ.
[37]. Kinh Truyện Thích Từ.
Thanh. Vương Dẫn Chi.
Dân Quốc. Hoàng Khản. Dương Thụ
Đạt phê ngữ.
Nhạc Lộc Thư Xã (TQ) 1984 / Sơ.
[38]. Khang Hi Tự Điển.
Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc soạn.
Lăng Thiệu Văn đẳng toản tu.
Cao Thụ Phiên trùng tu.
Linh Ký Xuất Bản Hữu Hạn Công Ty (HC) 1981 / Sơ.
[39]. Cổ Đại Hán Ngữ Tự Điển.
Vương Lực (1900 - 1986) chủ biên.
Đường Tác Phiên.
Quách
Tích Lương. Tào Tiên Trạc.
Hà Cửu Doanh.
Tưởng
Thiệu Ngu. Trương Song Đê.
Trung Hoa Thư Cục (TQ) 2003 / 4.
[40]. Từ Hải (Hợp đính Bản).
Chủ biên: Thư Tân Thành. Thẩm Di. Từ
Nguyên Cáo. Trương Tướng.
Trung Hoa Thư Cục (HC) 1983 / Trùng ấn.
[41]. Từ Hải (Thái đồ Súc ấn Bản - 1999 Bản. Ngũ Quyển Bản).
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã 2007 / 6.
[42]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản. 1987
Bản).
Chủ biên: Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam .
Hà Nam
Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1987 / Sơ.
[43]. Từ Vị.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty Biên Thẩm Ủy Viên Hội biên tập.
Lục Sư Thành chủ biên.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty
(ĐL) Dân Quốc năm 74 (1985) /
Khuyết.
[44]. Kiến Văn Tiểu Lục. (Bản
Hán Văn).
Việt Nam - Lê triều. Lê Quí Đôn.
Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu
đính và chú thích (Bản dịch có rất nhiều sai lầm).
Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt
Nam 2009 / Lần đầu.