Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, September 22, 2014

PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ III) - GS Minh Di


Lời giới thiệu của nhà thơ Kha Tiệm Ly:

 Kính gởi quý báo, 
Tôi hân hạnh đã đọc được những bài viết của GS Minh Di (Úc), và vô cùng thán phục kiến thức kinh người của GS. Nhờ đọc những bài viết nầy mà tôi mới thấy mình đã sai sót, quá yếu kém trong lãnh vực nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, xin quý độc giả đọc với sự dè dặt.

Tôi trân trọng gởi đến quý báo bài đầu tiên, quý báo tùy nghi sử dụng.
                                                                         Kha Tiệm Ly


PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ III) - GS Minh Di


Sau hết, ở đầu đoạn dẫn trên Lê Mạnh Thát ghi “….. năm Hàm Hanh thứ ba (672)”, tức năm thứ 3 Niên hiệu này tương ứng năm 672, thế nhưng, ở đoạn cuối lại viết “.... năm Hàm Hanh thứ 3 (674)”, tức năm thứ 3 Niên hiệu này nhằm năm 674, nói khác đi, cùng một thời điểm mà sai biệt 2 năm!

Nguyên văn đoạn trên của Thích Nghĩa Tĩnh:
- Vu thời Hàm Hanh nhị niên, tọa Hạ Dương Phủ. Sơ Thu hốt ngộ Cung Châu sứ quân Phùng Hiếu Thuyên, tùy chí Quảng Phủ, dữ Ba Tư bạch chủ kỳ hội Nam hành - Phục mông sứ quân lệnh vãng Cương Châu, trùng vi đàn chủ, cập đệ Hiếu Đản sứ quân, Hiếu Chẩn sứ quân, Quận quân Ninh thị, Quận quân Bành thị đẳng, hợp môn quyến thuộc hàm hiến tư tặng, tranh trừu thượng hối, các xả kỳ xan, thứ vô phạp ư hải đồ, khủng hữu lao ư hiểm địa. Đốc như thân chi huệ, thuận Cấp Cô chi tâm. Cộng tác qui y, đồng duyên thắng cảnh. Sở dĩ đắc thành lễ yết giả, cái Phùng gia chi lực dã! Hựu Lãnh Nam pháp tục cộng cảnh khứ lưu chi tâm; Bắc thổ anh nho câu hoài sinh biệt chi hận.
Chí thập nhất nguyệt toại nãi diện Dực, Chẩn bội Phan Ngu, chỉ Lộc Viên nhi hà tưởng, vọng Kê Phong nhi thái tức!
Vu thời quảng mạc sơ phiêu, hướng chu phương nhi bách trượng song quải - lệ sáng tiết, khí huyền sóc nhi ngũ lưỡng đơn phi. Trường tiệt hồng minh, tự sơn chi đào hoành hải - tà thông cự hác, như vân chi lãng thao thiên.
Vị cách lưỡng tuần, quả chi Phật Thệ. Kinh đình lục nguyệt, tiệm học thanh minh. Vương tặng chi trì tống vãng Mạt La Du quốc (Kim cải vi Thất Lợi Phật Thệ). Phục đình lưỡng nguyệt, chuyển hướng Kiệt Đồ.
Chí thập nhị nguyệt, cử phàm hoàn thừa vương bạch, tiệm hướng Đông thiên hĩ!
Tòng Kiệt Đồ bắc hành thập nhật dư, chí Lõa Nhân quốc. Hướng Đông vọng ngạn, khả nhất, nhị lý hứa, đản kiến gia tử thụ, tân lang lâm sâm nhiên khả ái.
Bỉ kiến bạch chí, tranh thừa tiểu đỉnh hữu doanh bách số, giai tương gia tử, ba tiêu cập đằng trúc khí lai cầu thị dịch. Kỳ sở ái giả đản duy thiết yên, đại như lưỡng chỉ, đắc gia tử hoặc ngũ hoặc thập.
Trượng phu tất giai lộ thể, phụ nữ dĩ phiến diệp già hình. Thương nhân hí thụ kỳ y, tức tiện dao thủ bất dụng.
Truyền văn tư quốc đương Thục Xuyên tây nam giới hĩ. Thử quốc bất xuất thiết dịch quả kim, ngân, đản thực gia tử, thứ căn, vô đa đạo cốc, thị dĩ lô ha tối vi trân quí. (Thử quốc danh thiết vi lô ha).
Kỳ nhân dung sắc bất hắc, lượng đẳng trung hình, xảo chức đoàn đằng sương, dư xứ mạc năng cập. Nhược bất cộng giao dịch tiện phóng độc tiển, nhất trúng chi giả vô phục tái sinh.
Tòng tư cánh bán nguyệt hứa, vọng Tây bắc hành, toại đạt Đam Ma Lập Để Quốc, tức Đông Ấn Độ chi Nam giới dã, khứ Mạc Ha Bồ Đề câp Na Lạn Đà khả lục thập dư dịch. Ư thử sáng dữ Đại Thừa Đăng Sư tương kiến, lưu trú nhất tái , học Phạm ngữ, tập Thanh Luận, toại dữ Đăng sư đồng hành, thủ chính Tây lộ, thương nhân sổ bách, nghệ Trung Thiên hĩ. Khứ Mạc Ha Bồ Đề hữu thập nhật tại, quá đại sơn trạch, lộ hiểm nan thông, yếu tạ đa nhân, tất vô cô tiến!
Vu thời Tĩnh nhiễm thời hoạn thân thể bì luy, cầu chẩn thương đồ, tuyền khốn bất năng  cập, tuy khả lệ kỉ cầu tiến ngũ lý chung tu bách tức! Kỳ thời hữu Na Lạn Đà Tự nhị thập hứa tăng tính Đăng thượng nhân tịnh giai tiền khứ, duy dư đơn kỷ, cô bộ hiểm ải. Nhật vãn bô thời sơn tặc tiện chí, viện cung đại hoán, lai kiến tương lăng. Tiên toát thượng y thứ trừu hạ phục, không hữu thao đới, dịch tịnh đoạt tương! Đương thị thời dã, thực vị trường từ nhân đại, vô hài lễ yết chi tâm, thể tán phong đoan bất toại bản cầu chi vọng!  Hựu bỉ quốc tương truyền, nhược đắc bạch sắc chi nhân, sát sung thiên tế! Ký tư thử thuyết cánh chẩn vu hoài nãi nhập nê khanh biến đồ hình thể, dĩ diệp già tế, phù trượng từ hành, nhật vân vãn hĩ, doanh xứ thượng viễn!  
Chí dạ lưỡng canh phương cập đồ lữ, văn Đăng thượng nhân thôn ngoại trường khiếu!  Ký kỳ tương kiến lệnh thụ nhất y trì nội tẩy thân phương nhập thôn hĩ!
Tòng thử Bắc hành sổ nhật, tiên đáo Na Lạn Đà kính Căn Bản Tháp, thứ thướng Xà Quật kiến điệp y xứ, hậu vãng Đại Giác Tự lễ chân dung tượng.
Sơn Đông đạo, tục sở tặng đà quyên, trì tác Như Lai đẳng lượng Ca Sa, thân phụng phi phục.
Bộc Châu Huyền luật sư phụ la cái sổ vạn, vi trì phụng thượng.
Tào Châu An Đạo thiền sư ký bái lễ Bồ Đề tượng dịch vi lễ cật.
Vu thời ngũ thể bố địa nhất tưởng kiền thành, tiên vị Đông Hạ tứ ân, phổ cập Pháp giới hàm thức! Nguyện “Long Hoa Tổng Hội”, ngộ Từ Thị tôn, tịnh khế Chân tông, hoạch vô sinh trí! Thứ nãi biến lễ thánh tích, quá phương trượng nhi giới Câu Thi, sở tại khâm thành, nhập Lộc Viên nhi khoa Kê Lãnh.
Trú Na Lạn Đà Tự thập tái cầu Kinh phương thủy tuyền chủng, ngôn qui hoàn Đam Ma Lập Để. Vị chí chi gian, tao đại kiếp tặc, cận miễn trị nhận chi họa, đắc tồn triêu tịch chi mệnh! Ư thử thăng bạch quá Kiệt Đồ quốc. Sở tương Phạm bản Tam Tạng ngũ thập vạn dư Tụng, Đường dịch khả thành thiên quyển, quyền cư Phật Thệ hĩ!
                                   /  Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện. Qu. Hạ  /.

- Bấy giờ là vào năm thứ 2 Niên hiệu Hàm Hanh, tôi đang ở trong mùa Kết Hạ tại Phủ Dương Châu. Tới đầu Thu thì bất ngờ gặp Sứ quân Cung Châu là Phùng Hiếu Thuyên nên tiện dịp theo ông tới Phủ Quảng Châu, ước hẹn với thuyền buôn Ba Tư đi xuống phương Nam - Lại thừa lệnh Sứ quân đi Cương Châu, (ông) lại làm đàn chủ, cùng các em của ông là Sứ quân Hiếu Đản, Sứ quân Hiếu Chẩn, cùng với bà Quận quân vợ ông họ Ninh, bà Quận quân vợ ông họ Bành, tất cả bà con giòng họ của những người này đều tới tặng tiền bạc, vật dụng, tranh nhau đem dâng cúng, người nào cũng thí xả những món ăn lạ, mong rằng tôi sẽ không thiếu thốn trên đường biển, (tất cả) sợ rằng tôi mệt nhọc chốn nguy hiểm! (Ai nấy đều) thực lòng như tặng cho người thân, thuận tấm lòng của (Trưởng giả) Cấp Cô Độc. Mọi người rồi cùng làm lễ qui y, cùng nương cảnh Phật. Việc lễ kính này có được tóm lại là nhờ vào sức của nhà họ Phùng! Lại nữa (bản chất của) người Tăng, kẻ tục ở vùng Lãnh Nam đều cùng nghẹn ngào trước cảnh kẻ ở người đi; (bản chất của) bậc trí thức tài cao nơi phương Bắc ai cũng buồn thương cho cảnh chia lìa giữa người sống.
Tới tháng 11 thì thẳng hướng sao Dực, sao Chẩn mà lìa Phan Ngu, nhắm Lộc Viên mà lòng nghĩ miên man, ngóng Kê Phong mà chép miệng than dài!
Bấy giờ gió bấc chớm thổi, dây neo thuyền 2 sợi treo lên, thuyền về phương Nam -  thời tiết chuyển tới phương vị sao là lúc gió bắt đầu nổi, một chiếc thuyền đơn lẻ lìa phương Bắc, trên thuyền, những chiếc lông gà phất phơ ở đầu cây cần đo độ gió. Giữa  khoảng mênh mông xa thẳm những lượn sóng tựa núi nhấp nhô trải ngang biển - trong lòng sơn cốc rộng nghiêng, những làn sóng như mây giăng đầy trời.
Chưa tới 20 ngày rốt cục tới thành Phật Thệ. Ở lại đây 6 tháng, học dần ngôn ngữ.
Vua (xứ này) tặng cho tiền bạc, vật dụng đưa tiễn tới nước Mạt La Du (Bây giờ đổi gọi là  nước Thất Lợi Phất Thệ). Lại ở lại đây 2 tháng rồi chuyển hướng qua nước Kiệt Đồ.
Tới tháng Chạp thì giong buồm, đi thuyền lớn của vua đi lần tới Ấn Độ.
Từ nước Kiệt Đồ theo hướng Bắc đi hơn 10 ngày thì tới nước Người Lõa Thể. Nhìn về bờ ở hướng Đông cũng vào khoảng 1, 2 dặm thì chỉ thấy rừng dừa, rừng cau xum xuê khả ái!
Dân kia thấy thuyền lớn tới thì tranh nhau cỡi thuyền nhỏ, có đến cả trăm chiếc, tất cả đều chở theo dừa, chuối và những vật dụng đan bằng tre, mây tới để đổi chác. Vật mà họ thích nhất là sắt, 1 miếng sắt bằng 2 ngón tay thì đổi được hoặc 5 hoặc 10 trái dừa.
Đàn ông thì tất cả đều lõa thể, đàn bà thì dùng [vài cái] lá cây để che thân! Khách buôn giỡn lấy y phục cho thì họ xua tay tỏ ý không dùng.
Cứ lời truyền thì nước này nằm ở địa giới mé Tây nam của đất Thục Xuyên. Nước này đã không có sắt, lại ít vàng, bạc, (dân ở đây) chỉ ăn dừa, khoai mỡ, họ không có nhiều lúa gạo, do đó sắt là thứ quí hơn hết! (Nước này gọi sắtlô ha).
Dân xứ này mặt mũi không đen, thân hình vừa tầm, họ khéo đan những cái rương tròn bằng mây, các xứ khác không xứ nào đan khéo bằng. Nếu (người xứ khác) không chịu giao dịch với họ họ sẽ bắn tên độc, người nào trúng tên này thì không cứu sống được!
Từ đây theo hướng Tây bắc, đi chừng hết nửa tháng thì tới nước Đam Ma Lập Để, đây  tức biên giới phía Nam của miền Đông Ấn Độ, cách Mạc Ha Bồ ĐềNa Lạn Đà cũng tới hơn 60 trạm nghỉ.
Đây là nơi tôi gặp Đại Thừa Đăng lần đầu tiên, lưu lại đây một năm học tiếng Phạn, tập ngữ pháp tiếng Phạn, sau đó cùng đi với thầy (Đại Thừa) Đăng, khách buôn cùng đoàn mấy trăm người, theo hướng chính Tây đi về miền Trung Ấn Độ. Rời Mạc Ha Bồ Đề độ 10 ngày thì tới vùng núi non, ao đầm lớn, đường đi nguy hiểm khó qua được, phải có đông người cùng đi, không thể đi một mình được!
Bấy giờ (Nghĩa) Tĩnh tôi nhiễm bệnh thời tiết, người mệt mỏi, gầy ốm, xin đi theo đoàn thương buôn, (nhưng) cứ khốn đốn luôn không theo kịp đoàn; tuy tự khích lệ là phải cố vượt lên (cho kịp) nhưng cứ đi 5 dặm thì nghỉ tới cả trăm lần. Lúc đó có lối 20 thầy tăng ở Chùa Na Lạn Đà cùng với Đăng thượng nhân đã ở đằng trước, chỉ mình tôi đơn độc đi qua chỗ nguy hiểm! Tới chiều tối thì giặc núi đổ ra, cầm cung hò hét tới cướp. Trước chúng lột áo trên, kế đến lột quần dưới, còn mỗi cái đai lưng chúng cũng lấy luôn! Lúc bấy giờ quả thực phải nói là nếu rời bỏ cõi người thì rồi không hợp với tâm nguyện đến bái yết đất Phật, thân như chết đi dưới đầu gươm dáo thì không đạt thành nguyện vọng của mình! Lại nữa, nước đó truyền nhau rằng nếu bắt được người da trắng thì bọn họ  giết đi để tế trời! Nghĩ tới truyền thuyết này thì đau đớn trong lòng, vì vậy tôi dầm mình trong hố bùn, lấy bùn trét khắp người, lấy lá cây che thân, chống gậy đi từ từ, trời cũng đã tối, chỗ trú chân thì còn xa!
Tới tối, vào canh 2 mới gặp đoàn lữ hành, nghe Đăng thượng nhân đang lớn tiếng kêu ở mé ngoài thôn! Lúc gặp nhau rồi thượng nhân đưa tôi một bộ y phục nói tôi xuống ao tắm rửa đâu đó mới vào thôn.
Từ đây theo hướng Bắc đi mấy ngày thì trước tới chùa Na Lạn Đà lễ Tháp Căn Bản, kế lên Kỳ Xà Quật thăm nơi có (dấu tích) áo (Cà sa bằng vải) bạch điệp của Phật, sau đó đi Chùa Đại Giác hành lễ tượng chân dung của Phật.
Tơ và vải người tăng kẻ tục ở vùng Sơn Đông gởi tặng thì đem may áo Cà sa vừa vặn với thân của Như Lai, và đích thân tôi bận cho tượng.
Luật sư HuyềnBộc Châu gởi phụ theo mấy chục ngàn cái lọng may bằng thứ tơ mịn nhuyễn, để dâng lên Phật.
Thiền sư An ĐạoTào Châu đến hành lễ tượng Bồ Đề xong cũng dâng lễ đầy đủ.
Bấy giờ tôi 5 vóc mọp xuống đất, một lòng chí thành, trước là tạ 4 ân cõi Đông Hạ, sau trải khắp các hàm thức trong Pháp giới! Nguyện trong “Tam Hội Long Hoa” được gặp đức Từ thị, trong mỗi Hội đều khế hợp thực lý của Chân như Pháp tướng, đạt được trí vô sanh! Kế tới là đi hành lễ khắp các Thánh tích, ghé qua nhà cũ của Cư sĩ Duy Ma rồi đi qua nước Câu Thi, đến chỗ nào (tôi) cũng cung kính, thành tâm, vào Lộc Viên, và vượt qua dãy Kê Lãnh.
Tôi ở Chùa Na Lạn Đà 10 năm cầu Kinh sau đó mới trở gót, nói là về Đam Ma Lập Để. Chưa tới nơi thì gặp nạn lớn giặc cướp, may thoát được cái họa gươm đao, giữ được cái mạng ngắn ngủi. Tại đây tôi lên thuyền buôn đi Nước Kiệt Đồ. Tam Tạng Kinh Điển Phạn ngữ mang theo về gồm hơn 500,000 Tụng, chuyển dịch ra Đường ngữ cũng đến 1,000 Quyển; do nơi tình thế tạm thời tôi ở lại Phật Thệ! 
 [Chú thích.
1). - “Thời tiết chuyển tới phương vị sao Cơ là lúc gió bắt đầu nổi”.
Nguyên tác: “Lệ cơ sáng tiết”.
Cuốn Vĩ thư “Xuân Thu Khảo Dị Bưu” ghi:
- “Nguyệt thất kỳ hành, lệ vu Cơ giả phong”.
- “Mặt trăng vận hành không đúng tiết điệu, vận hành tới vị trí sao Cơ thì gió nổi”.

2). Vải bạch điệp.
Xin coi chú thích 21). trong phần “Những cái sai của Lê Mạnh Thát” ở trên.

3). Đông Hạ.
Tức miền Đông Trung Hoa, phiếm chỉ Trung Quốc. Ấn Độ ở phương Tây, Trung Quốc ở phương Đông nên gọi “Đông Hạ”.

4). 500,000 Tụng.
Trong Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện, Nghĩa Tĩnh cho biết:
- “Phàm ngôn nhất Tụng nãi hữu tứ cú, nhất cú bát tự, tổng thành tam thập nhị tự. Cánh hữu tiểu Tụng, đại Tụng, bất khả cụ thuyết”.
                              Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện. Qu. IV. Tây phương học pháp 34  /.
- “Nói chung, một Tụng4 câu, mỗi câu 8 chữ, tổng cộng 32 chữ. Lại có tiểu Tụng, đại Tụng không nói hết được”. 
Trong mục “Định Không Và Định Pháp Sư” Lê Mạnh Thát viết:
   -Toàn Đường thi 333 tờ 3722 khi chép lại các tác phẩm của Dương Cự Nguyên, đã chép bài có nhan đề Cung phụng Định pháp sư qui An Nam:
                                 Quê hương ngoài Nam Việt
                                 Muôn dặm núi mây xa
                                 Cửa trời kinh luận vắng
                                 Vào biển gặp hương hoa
                                 Sóng gợn cò soi bóng
                                 Thành xây hến mấy tòa
                                 Trường An lòng nghĩ nhớ
                                 Giao Châu chuông đêm tà

                                (Cố hương Nam Việt ngoại
                                 Vạn lý bạch vân phong
                                 Kinh luận từ thiên khứ
                                 Hương hoa nhập hải phùng
                                 Lộ đào thanh phạm triệt
                                 Thần các hóa thành trùng
                                 Tâm đáo Trường An mạch
                                 Giao Châu dạ hậu chung)
(LSPGVN. trang 267, 268).
Bài thơ Lê Mạnh Thát dịch trên đây có 2 cái sai rất nặng:
(1). Sóng gợn cò soi bóng.
Nguyên tác: “Lộ đào thanh phạm triệt”.
Chữ “lộ” trong câu nghĩa là “con cò”, thế nhưng chẳng có con cò nào ở đây hết!
2 chữ “lộ đào” có nghĩa là “sóng nước”; sóng bạc nhấp nhô như con cò trắng bay lượn cho nên ghép chữ “lộ” để nói lên hình ảnh đó! Chỉ giản dị có thế!
Chỉ giản dị có thế, chẳng con cò nào “soi bóng” như Lê Mạnh Thát tưởng tượng cả!
Mai Thặng (? - ?) đời Tây Hán (206 tr Cn – 08) viết:
- “Diễn dật, phiêu tật, ba dũng nhi đào khởi! Kỳ thủy khởi dã, hồng lâm lâm yên, nhược bạch lộ chi hạ tường!”.
                                   /  Văn Tuyển. Qu. XXXIV. Thất thượng. Mai Thúc Thất phát  /.
- “Mênh mông chảy gấp, gợn vọt mà sóng dậy! Lúc mới cuốn lên, thế ào ào đổ, dường cò trắng bay lượn xuống!
Lạc Tân Vương (? - ?) đầu đời Đường (618 - 907):
                                   Lộ đào khai bích hải,
                                   Phụng thể chuyết từ lâm.
                                   (Hạ nhật du Đức Châu tặng Cao Tứ).
                                                       Sóng phau lan biển biếc,
                                                       Lời đẹp điểm rừng văn.  

+ Tóm lại, thấy tiếng “lộ đào”, “lộ là “con cò”, “đào” là “sóng nước” bỗng đâu, chợt đâu mà ý tứ trào ra, Lê Mạnh Thát dịch luôn là “sóng gợn cò soi bóng” không chịu để ra một khoảng hở để suy nghĩ, để thắc mắc!
Lê Mạnh Thát không suy nghĩ, không thắc mắc để thấy môt chuyện hết sức đơn giản là chỉ ở mặt hồ, mặt ao, nước lặng chim chóc, cảnh vật mới “soi bóng” được! Sóng nước cuốn ào ào, nổi bọt trắng xóa thì làm thế nào chim chóc, cảnh vật “soi bóng” được đây!
(2). Thành xây hến mấy tòa.
Nguyên tác: Thẩn các, hóa thành trùng!”.
Câu dịch của Lê Mạnh Thát tối mò mò! Cái sự tối mò mò này không có gì lạ hết, bởi lẽ chính Lê Mạnh Thát rồi không hiểu nguyên tác nói cái chi nữa! Không hiểu thì làm sao câu dịch không tối mò mò cho được! “Thành xây hến mấy toà”, tòa hếntòa gì đây?
Những người không biết Hán văn rồi chẳng hiểu Lê Mạnh Thát nói cái gì? Bản thân đã không hiểu thì làm sao làm cho người khác hiểu được!
Câu này gồm 2 cặp, 4 chữ diễn tả một quan điểm quan trọng của Phật giáo, quan điểm nhất thiết thế giới đều là hư huyễn, không thực!
1). Thẩn các. Còn gọi thẩn lâu, hay thẩn khí.
Thẩn (Thân + dấu Hỏi) Lê Mạnh Thát đọc sai là Thần (Thân + dấu Huyền).
+ Có những lúc sóng êm, gió lặng, trên mặt biển, từ một điểm nhìn ra khoảng xa xa, do hiện tượng ánh sáng chiết xạ mà tạo thành ảnh ảo những cung điện, thành quách. 
+ Người xưa cho rằng đây là do hơi (khí) của những loài trai, sò lớn (thẩn) phả ra mà thành hiện tượng này. Không chỉ ở trên biển, ở sa mạc cũng xảy ra hiện tượng kể trên!
Trong Kinh điển Phật giáo, cung điện hư ảo nói trên được gọi là Thành Càn Thát Bà, là  duyên thứ 5 trong 10 duyên gọi là “Thập Duyên Sinh Câu”.
Trong ngôn ngữ Trung Hoa có thành ngữ “hải thị thẩn lâu” dùng để chỉ những gì hư ảo không thực!

Kinh Hoa Nghiêm:
- “Phật tử, tỉ như Long cung y địa nhi lập, bất y hư không. Long y cung trú dịch bất tại không nhi năng hưng vân biến mãn không trung. Hữu nhân ngưỡng thị sở kiến cung điện đương tri giai thị Càn Thát Bà thành, phi thị Long cung! Long tuy xử hạ nhi vân bố thượng”.
                                                Hoa Nghiêm Kinh. Thập Định Phẩm XXVII  /.
- “Phật tử, ví như Long cung dựa nơi đất mà tạo lập, chẳng dựa nơi hư không. Rồng ở trong cung cũng chẳng ở nơi hư không mà có thể nổi mây đầy khắp trời. Có người nào nhìn lên (không trung) thấy cung điện thì nên biết đây đều là Thành của Càn Thát Bà chứ không phải là Long cung! Rồng tuy ở dưới nhưng mây giăng trên không”.

Lại một đoạn khác:
- Tỷ như tỳ khâu nhập biến xứ định, nhược hành, nhược trú, nhược tọa, nhược ngọa tùy sở nhập định cảnh giới hiện tiền.
Thiện Tài đồng tử dịch phục như thị, nhập ư lâu quán, nhất thiết cảnh giới tất giai minh liễu!
Tỷ như hữu nhân ư hư không trung kiến Càn Thát Bà Thành cụ túc trang nghiêm tất phân biệt tri, vô hữu chướng ngại!
Tỷ như Dạ Xoa cung điện dữ nhân cung điện đồng tại nhất xứ nhi bất tương tạp, các tùy kỳ nghiệp sở kiến bất đồng!
                                          /  Hoa Nghiêm Kinh. Nhập Pháp Giới Phẩm XXXIX  /.
- Ví như tỳ kheo nhập biến xứ định, lúc đi, lúc đứng, lúc ngồi, lúc nằm, tùy định nhập mà tất cả cảnh giới đều hiện ra trước mắt.
Thiện Tài đồng tử cũng vậy, vào trong lầu gác thì tất cả cảnh giới đều thấy rõ cả!
Ví như có người thấy thành Càn Thát Bà ở giữa hư không có đầy đủ sự trang nghiêm mà phân biệt biết rõ hết, không có chướng ngại!
Ví như Cung điện của Dạ Xoa và Cung điện của loài người cùng tại một chỗ mà không lẫn lộn, mỗi người đều tùy nghiệp của mình mà thấy khác nhau!

+ Thập Duyên Sinh Câu.
1/. Huyễn. Huyễn thuật sư sở tác chi chủng chủng tướng mạo dã.
Huyễn ảo. Các loại hình tướng do nhà ảo thuật tạo ra.
2/. Dương diệm. Nhiệt không trần đẳng nhân duyên hòa hợp ư khoáng dã chi trung hiện thủy tướng giả dã.
Ánh nắng gắt. Trong không khí nóng ở khoảng đồng hoang bao la vi trần (phiêu động) các nhân duyên hòa hợp mà hiện tướng nước.
3/. Mộng. Thụy miên trung sở kiến chi chủng chủng cảnh giới dã. 
Mộng. Các loại cảnh giới thấy trong giấc ngủ.
4/. Ảnh. Kính trung chi ảnh tượng dã.
Bóng. Cái bóng hiện trong gương.
5/. Càn Thát Bà thành. Thẩn khí ánh nhật quang, ư đại hải thượng hiện Cung điện chi tướng giả dã.
Thành Càn Thát Bà. Hơi của các loài trai sò lớn phả ra giao thoa với ánh nắng mà hiện thành hình những Cung điện trên mặt biển bao la.
6/. Hưởng. Thâm cốc đẳng trung y thanh nhi sinh chi thanh dã.
Tiếng vang. Âm thanh sinh ra từ âm thanh phát ra trong các hang sâu.
7/. Thủy nguyệt. Thủy trung sở kiến chi nguyệt ảnh dã!
Bóng trăng thấy trong nước!
8/. Phù lãng. Thủy thượng sở kiến chi bào mạt dã.
Sóng nổi. Bọt nước thấy trên mặt nước.
9/. Hư không hoa. Nhãn mạc ư không trung sở kiến chi chủng chủng hoa dã.
Những đom đóm mà mắt thấy giữa không trung.
10/. Tuyền hỏa luân. Nhân dĩ hỏa lư tuyền chuyển không trung tắc sinh luân tượng.
 Con người cầm lò lửa quay giữa khoảng không thì thành hình cái bánh xe (lửa).
- “Dĩ thượng Thập duyên sinh câu” giai vi tòng duyên sinh, vô tự tính chi nghĩa”.
                                                        Phật Học Đại Từ Điển. Thập duyên sinh câu  /.
- “Trên đây là “Thập duyên sinh câu”, đều tùy duyên mà sinh, không có tự tánh”.
Trung Hoa có thành ngữ “Hải thị thẩn lâu” để chỉ những gì hư huyễn, không thực!
2). Hóa thành. Thành huyễn hóa, không thực.
Kinh “Diệu Pháp Liên Hoa”:
~ “........ Tỉ như ngũ bách do tuần hiểm nạn ác đạo, khoáng tuyệt vô nhân bố úy chi xứ! Nhược hữu đa chúng dục quá thử đạo chí trân bảo xứ!
Hữu nhất đạo sư thông huệ minh đạt, thiện tri hiểm đạo thông tắc chi tướng, tương đạo chúng nhân dục quá thử nạn. Sở tương nhân chúng trung lộ giải thoái, bạch đạo sư ngôn: 
- Ngã đẳng bì cực, nhi phục bố úy, bất năng phục tiến, tiền lộ do viễn, kim dục thoái hoàn!
Đạo sư đa chư phương tiện nhi tác thị niệm: Thử đẳng khả mẫn, vân hà xả đại trân bảo nhi dục thoái hoàn? Tác thị niệm dĩ, dĩ phương tiện lực ư hiểm đạo trung tam bách do tuần hóa tác nhất Thành, cáo chúng nhân ngôn:
- Nhữ đẳng vật bố, mạc đắc thoái hoàn, kim thử đại thành khả ư trung chỉ tùy ý sở tác. Nhược nhập thị Thành khoái đắc an ổn, nhược năng tiền chí bảo sở dịch khả đắc khứ!
                           Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Qu. XI. Hóa Thành dụ Phẩm đệ thất  /.                                                 
 ~ “......... như có một xứ rộng 500 do tuần có nhiều sự kinh khủng, sợ hãi với những nguy hiểm, họa nạn, đường đi nguy hiểm, hoang vu, tuyệt nhiên không có người ở! một đoàn nhiều người muốn đi qua đường này để tới xứ có nhiều vật quí!
Có một người dẫn đường thông minh trí huệ, hiểu sự lý, biết hình thế đường đi chỗ nào hung hiểm, chỗ nào thông chỗ nào nghẽn, đưa đoàn người muốn vượt qua con đường (nhiều) hiểm nạn này. Đoàn người được dẫn đi tới giữa đường thì lười mỏi, chùn bước muốn lui trở lại, nói với người dẫn đường:
- Chúng tôi đã mệt mỏi lắm, lại sợ hãi không đi tới được nữa, (đoạn) đường phía trước thì còn xa, bây giờ chúng tôi muốn quay trở về!
Vốn có nhiều phương cách hay người dẫn đường nghĩ thế này: Những người này thực đáng thương, sao lại từ bỏ những vật rất quí mà toan quay trở về? Nghĩ xong điều này liền dùng sức thần thông, nơi một vùng rộng 300 do tuần, giữa con đường nguy hiểm hóa ra một ngôi Thành, nói với mọi người:
- Các ông đừng sợ, không nên lui về, bây giờ chúng ta có thể dừng lại nghỉ ngơi trong tòa Thành lớn này, muốn làm gì thì làm. Nếu vào Thành này thì rất an ổn, nếu có muốn đi nữa tới chỗ các vật quí thì cũng có thể đi được!”.   
Tiếp đến chúng ta hãy coi Lê Mạnh Thát nói về quan chức Trung Hoa:
    - “Cung Phụng là một văn chức trong môn hạ tĩnh, tức gồm những người tham mưu cho hoàng đế, như Tân Đường thư 47 tờ 2a6-7 cho biết……”.
(LSPGVN2, trang 273).
Lê Mạnh Thát không biết rằng 2 chữ “Cung Phụng” không chuyên chỉ một chức vụ nào nhất định như Lê Mạnh Thát viết tào lao.
Lê Mạnh Thát không biết rằng tiếng “Cung Phụng”, hay hơn, “Cung Phụng Quan”, là danh xưng chỉ chung những chức quan kề cận hoàng đế để làm nhiệm vụ chuyên môn của mình. Nói rõ hơn, tiếng “Cung phụngtự nó không phải là một chức vụ độc lập như Lê Mạnh Thát viết hàm hồ!   

Nhóm biên soạn Lý Lâm Phủ (? - 752) ghi trong “Đường Lục Điển”:
-Cung Phụng quan. Vị Thị trung, Trung Thư lệnh, Tả / Hữu Tán kỵ Thường thị, Hoàng môn, Trung thư Thị lang, Gián nghị Đại phu, Cấp sự trung, Trung thư xá nhân, Khởi cư lang, Khởi cư xá nhân, Thông sự xá nhân, Tả / Hữu Bổ khuyết, Thập di, Ngự sử Đại phu, Ngự sử Trung thừa, Thị Ngự sử, Điện trung Thị Ngự sử”.
                                                   /  Đường Lục Điển. Qu. II. Thượng Thư Lại Bộ  /.
-Cung Phụng quan. Chỉ các chức: Thị trung, Trung Thư lệnh, Tả / Hữu Tán kỵ Thường thị, Hoàng môn, Trung thư Thị lang, Gián nghị Đại phu, Cấp Sự trung, Trung thư Xá nhân, Khởi Cư lang, Khởi Cư xá nhân, Thông sự Xá nhân, Tả / Hữu bổ khuyết, Thập di, Ngự sử Đại phu, Ngự sử Trung thừa, Thị Ngự sử, Điện trung Thị Ngự sử.

Bộ Tân Đường Thư chép:
- “Môn Hạ Tỉnh.........
Tả Bổ khuyết lục nhân, túng Thất phẩm thượng - Tả Thập di lục nhân, túng Bát phẩm thượng, chưởng cung phụng phúng gián đại sự, đình nghị, tiểu tắc thượng phong sự”.
                                                             Tân Đường Thư. Qu. XLVII. Bách quan chí  /.
- “Cơ quan Môn Hạ Tỉnh.........
Chức Tả Bổ khuyết có 6 người, ngạch trật đứng trên trật túng (tòng) Thất phẩm - chức Tả Thập di có 6 người, ngạch trật trên túng (tòng) Bát phẩm, chuyên việc can gián vua trong các việc lớn, trong những buổi thảo luận của triều đình, về việc nhỏ thì xét những việc sắc phong”. 

Tới đây thì có thể thấy Lê Mạnh Thát đâu có đọc bộ “Tân Đường Thư” như ông ta dẫn ở trên!
Cuốn “Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại Quan Chế Từ Điển” giảng 2 chữ Cung phụng như sau:
- [Cung Phụng]. Tại hoàng đế tả hữu cung chức giả đích xưng hô. Đường sơ hữu Thị Ng sử Ni Cung phng, Đin trung Thị Ng sử Ni Cung phng đẳng. Huyền tông thời tuyển Văn học chi sĩ vi Hàn lâm Cung phng chưởng Cung trung chế chiếu thư sắc, hậu cải vi Hàn lâm học sĩ”.
                      Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại Quan Chế Từ Điển. Cung Phụng  /.
- [Cung Phụng]. Tiếng xưng hô những quan chức làm nhiệm vụ của mình bên cạnh vua. Đầu thời Đường các chức ThNg sử Ni Cung phng, Đin trung ThNg sử Ni Cung phng. Thời Huyền tông tuyển người trong giới Văn học làm Hàn lâm Cung phng nắm giữ công việc soạn thảo chế thư, chiếu thư, sắc thư trong Cung, sau đổi thành Hàn lâm Học sĩ”.
 
Và như vậy, tiếng Cung phụng chỉ là tiếng thêm vào chức vụ của một quan chức nhằm xác định quan chức này là người phục vụ trong Cung, làm việc bên cạnh vua.
Cuốn “Cổ Kim Xưng Vị Ngữ Từ Điển” viết:
- “[Cung Phụng]. Dĩ mỗ chủng kỹ nghệ thị phụng đế vương đích nhân.
Lệ: Thị Ngự sử Cung phụng / Hàn lâm Cung phụng / Nội đình Cung phụng”.
- “[Cung Phụng]. Người dùng khả năng nào đó của mình để phục vụ bậc đế vương.
Thí dụ: Thị Ngự sử Cung phụng / Hàn lâm Cung phụng / Nội đình Cung phụng”.

Cuốn “Trung Quốc Lịch Đại Chức Quan Biệt Danh Từ Điển” nêu 3 trường hợp:
(1). Gián quan thuộc 2 cơ quan Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh thường theo bên cạnh hoàng đế, giữ việc can gián do đó tục gọi các quan chức này là “Cung Phụng Quan”.
(2). Cung Phụng là tên gọi khác chỉ chung quan lại trong các Ty.
(3). Cung Phụng cũng là tiếng phiếm chỉ Hoạn quan.

Lê Mạnh Thát viết:
Năm Đinh Mão Thiên Hựu thứ tư (907), Đại Việt sử ký toàn thư ngoại kỷ 5 tờ 17b2-3 viết: ‘‘Khi ấy Lưu Ẩn chiếm cứ Phiên Ngung, người Giao Châu là Khúc Hạo chiếm châu trị, xưng là Tiết độ sứ, chí nhắm lật nhau. Năm ấy nhà Đường mất.’’. Thế là cả một trăm năm từ khi Định Không mất (808) đến lúc Khúc Hạo lên làm Tiết độ sứ (907), là một thế kỷ đấu tranh hoành tráng và bi hùng của dân tộc ta. Đây cũng là một thế kỷ đầy những thảm bại nhục nhã của quân đội thiên triều, trước khí thế đấu tranh ngùn ngụt của quân dân khởi nghĩa. Nó đồng thời cũng phản ánh nỗi rên xiết khổ đau quằn quại của dân chúng Trung Quốc.

          Nỗi thất bại nhục nhã và đau khổ ấy đã thể hiện trong một bài thơ do Toàn Đường thi 784 tờ 531 chép lại. Bài thơ này Toàn Đường thi ghi là do ‘một cử nhân An Nam viết’, và không cho biết là tên gì. Tuy nhiên, An Nam chí lược 16 tờ 157 lại ghi là do Bì Nhật Hưu viết trách Lý Trác với tên Chê trách ngược chính của đô hộ Lý Trác làm dân phản. Nội dung thật sự tả cảnh thảm bại của quân đội Trung Quốc và việc người dân Trung Quốc bị bắt lính, thu lương, bóc lột đến tận xương tủy bởi những tên vua hiếu chiến, dốc hết mọi sinh mạng dân Trung Quốc vào lò lửa đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Cho nên, bài thơ này khó mà có thể do những danh sĩ Trung Quốc đương quyền như Bì Nhật Hưu viết ra
Bài thơ như sau:
                             Nam phương không chọn sứ
                             Khiến Giao Châu ta đỗ
                             Liên miên ba bốn năm
                             Để nhục lại Trung Hạ
                             Kẻ nhát đánh liền lui
                             Nhàm chán lính hùng hổ
                             Quân nhu bòn rút dân
                             Vàng ngọc tướng đánh đá
                             Khoét xương tủy dân đen
                             Chia ăn đám tướng tá
                             Hùng hổ tướng Hứa Xương
                             Trung dũng đứng đầu sổ
                             Muôn kỵ đi như gió
                             Đến làm sông thịt cả
                             May có tàn tốt về
                             Khóc vang ngàn vạn hộ
                             Tiếng buồn khắp xóm thôn
                             Khí oán đầy sơn dã
                             Trống trận ai thể nghe
                             Mưa gươm trông không nỡ
                             Nghĩ tới than cùng ai
                             Sông Dĩnh xanh ngát cả’’.
(LSPGVN2. tr. 371, 372).

Bài thơ trên đây “Toàn Đường Thi” đã sao lục từ bộ bút kí “Bắc Mộng Tỏa Ngôn” của Tôn Quang Hiến (? - ?) thời Ngũ Đại (907 - 960).
Vì lẽ Tôn Quang Hiến không ghi tựa bài thơ cho nên ban biên tập Toàn Đường Thi đã căn cứ nội dung bài thơ, và lời tự thuật của Tôn Quang Hiến, mà đặt tựa đề cho bài thơ là “Thích An Nam Sự Thi”, và ghi tác giả là “Ý Tông triều cử tử”.
Tôn Quang Hiến viết:
- Lý Trác hậu trấn thị bang dụng pháp đại khốc, quân thành viễn xuất nhi thuộc An Nam, lục thất niên gian lao động binh dịch. Hàm Thông thất niên Cao Biền thu phục chi.
Tiên thị, Kinh, Từ gian chinh dịch cự man, nhân thậm khổ chi! Hữu cử tử văn Hứa tốt nhị thiên một ư man hương, hữu thi thích chi viết:………
Ngâm thử Thi hữu dĩ kiến thất ư thụ nhiệm vi quốc gia sinh sự, Đại Đông chi khổ tư kỳ loại hồ?”
                                                          / Bắc Mộng Tỏa Ngôn. Qu. II. Thụ nhiệm trí khấu  /.
- Về sau Lý Trác tới trấn nhiệm nước này, áp dụng luật pháp cực tàn bạo, thành trì quân binh trấn đóng thì xa, lại ở trên đất An Nam, việc chinh chiến khổ nhọc 6, 7 năm liền. Tới năm thứ 7 Niên hiệu Hàm Thông Cao Biền mới thu phục lại được!
Trước đó việc chiến tranh chống dân Man ở các vùng Kinh châu, Từ châu làm dân rất khổ. Có một học trò đi thi nghe 2,000 quân binh thành Hứa Xương chết nơi đất Man thì làm 1 bài thơ chỉ trích việc này:………
Ngâm bài Thơ này thì thấy việc trao trách nhiệm cai trị không đúng người rồi khiến cho quốc gia xảy ra chuyện, cảnh khổ ở vùng Đại Đông rồi chẳng như việc này sao?”.
(KỲ 4, chót)
< Những cái sai của Lê Mạnh Thát trong đoạn trên.
Trước hết, Lê Mạnh Thát dịch tiếng “cử tử” là “cử nhân” là sai!
Cử tử là người học trò đi thi.
Kế đến, về bài thơ, Lê Mạnh Thát có một số câu dịch không chỉnh, dịch sai:
Câu 4: nguyên tác là “Trí ngã Giao Chỉ nhục”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Để nhục lại Trung Hạ”.
Câu này phải dịch là: “Khiến ta nhục Giao Chỉ”.
Vì không chọn quan lại cai trị tài đức nên đưa tới mối nhục bại trận ở Giao Chỉ.
Câu 7: Nguyên tác là “Quân dung mãn thiên hạ”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Quân nhu bòn rút dân”.
Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa tiếng “Quân dung” như sau:
- “[Quân dung].
(1). Quân đội đích nghi dung. Chỉ quân đội đích lễ tiết, phong kỷ cập trang bị.
(2). Quân chức”.
- “[Quân dung].
(1). Pháp tắc qui củ của quân đội. Chỉ quân cách, kỷ cương phép tắc và những trang bị của quân đội.
(2). Chức vị quân đội.
Cứ như giảng nghĩa trên đây thì “quân dung” chỉ quân đội với tất cả những qui định về các phương diện Hành chánh, Quân phong, Quân kỷ, rồi Quân trang, Quân dụng - tức vũ khí, giáp trụ.....), tóm lại là tổ chức Quân đội. Tóm lại, ở đây tiếng “quân dung” nhằm chỉ Quân đội nói chung.
Và như vậy, câu trên có thể dịch là: “Quân binh khắp thiên hạ”.   
Cứ đó thì thấy câu 7 này không có ý nào là “bòn rút dân” như Lê Mạnh Thát dịch hết!
Câu 8: “Chiến tướng đa kim ngọc”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Vàng ngọc tướng đánh đá”.
Câu này dịch đúng là “Chiến tướng nhiều vàng ngọc”.
Ý nói ở trên thì các tướng chỉ huy vơ vét, chia nhau vàng ngọc trong khi ở dưới thì dân bị bắt làm dân phu phục vụ cho chiến tranh, bỏ phế việc làm ăn sinh sống.
Có thể thấy ở đây không có ý nào nói chuyện các tướng “đánh đá” hết!
Câu 9: “Quát đắc tề dân thương”.
Lê Mạnh Thát dịch là “Khoét xương tủy dân đen”.
Dịch là: “Lột đến dân thân cùng”.
Chữ “quát” nghĩa là “mài”, là “tước đoạt”, chữ “thương” (Bộ Tật = bệnh) là “ung nhọt”.
Câu 13: “Khứ vi vạn kỵ phong,
Câu 14: “Trú vi nhất xuyên nhục”.
Lê Mạnh Thát dịch: “Muôn kỵ như gió đi,
                                 Đến làm sông thịt cả”.
Tương đối sát nguyên tác là: “Đi là muôn vó uy,
                                                 Về là một sông thịt”. 
Chữ “trú” ở đây có nghĩa “ngừng lại, đình chỉ- ở đây ý nói lúc tàn cuộc chiến, lúc đem quân trở về.
2 câu này diễn tả lúc quân lên đường thì rần rộ cả vạn kỵ binh, uy thế mạnh mẽ, ào ào như gió cuốn, lúc tàn cuộc chiến thì thây trôi đầy sông, xác phơi đầy đồng. 
(Chữ “xuyên” có nghĩa là “sông”, mà cũng có nghĩa là “đồng bằng”).  
Câu 15: “Thời hữu tàn tốt hồi”.
Lê Mạnh Thát dịch: “May có tàn tốt về”.
Chính xác là: “Chừng có tàn quân về”, hoặc “chừng lính sống sót về”.
Chữ “thời” có nghĩa là “chừng, lúc”, không phải là “may” như Lê Mạnh Thát hiểu.
Câu 20: “Bất nhẫn khán kim tộc”.
Lê Mạnh Thát dịch: “Mưa gươm trông không nỡ”.
Đúng phải dịch là: “Chẳng nỡ nhìn tên cứng”.
Chữ “kim” ở đây nghĩa là “cứng”, hàm ý cứng nhọn; hiểu là “kim loại” cũng thông.
Chữ “Tộc” (Bộ Kim [vàng] + chữ Tộc [gia tộc]) nghĩa là:
1). Đầu mũi tên, tức mũi nhọn của tên.
2). Mũi tên vút nhanh, mạnh.
Nghĩa sau này Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa là:
- “2. Chỉ tiển khinh nhuệ”.
- “2. Chỉ mũi tên (bay đi) nhanh, mạnh”.
(Nhuệ có nghĩa là “nhọn, sắc”, mà cũng có nghĩa “nhanh, mạnh” [tấn mãnh]).
Ở đây chẳng có “mưa”, cũng chẳng có “gươm” như Lê Mạnh Thát dịch bậy!
Tôi đến không rõ từ đâu mà Lê Mạnh Thát dịch “đứng” thành 2 chữ “mưa gươm”?  
Câu 21: Niệm thử kham lệ lưu”.
Lê Mạnh Thát dịch: “Nghĩ tới than cùng ai”.
Chính xác phải dịch là: “Nhớ chuyện lệ chẳng ngăn”.
Câu này nói “nhớ tới cuộc chiến này thì chẳng ngăn được nước mắt”.
Có “ai” đâu ở đây mà Lê Mạnh Thát dịch?  

Sau hết, Lê Mạnh Thát nói là “bài thơ này khó mà có thể do những danh sĩ Trung Quốc  đương quyền như Bì Nhật Hưu viết ra”.
+ Nếu Lê Mạnh Thát nói thế thì điều này có nghĩa bài “Thích An Nam Sự Thi” ở đây là của một người Giao Chỉyêu nướcnào đó, thời đó sáng tác! Nếu thế thì lập luận của Lê Mạnh Thát chỉ có thể đưa đến kết luận sau đây:
Người Giao Chỉ sau 973 năm bị Trung Hoa cai trị thì chợt đâu hóa thương kẻ xâm lăng như thương người nước mình, hoặc rõ hơn, người bị trị và kẻ cai trị rồi chỉ là một - tức kẻ bị trị đã đồng hóa với kẻ cai trị - Đây là suy nghĩ của thực dân, tôi không nghĩ đây là kiến giải của Lê Mạnh Thát, một kiến giải rất sai lạc, như Lịch sử Việt Nam đã cho thấy hết sức là rõ - Người Việt Nam không bao giờ là người Trung Hoa! Nếu Trung Hoa ngày nay đã chẳng có một nước gọi là Việt Nam!
Ở đây không có bất cứ một điểm nào cho phép kết luận là bài thơ nói trên là của người Giao Chỉ làm ra hết! Đất Giao Chỉ vốn là đất người Trung Hoa chiếm và coi như của họ do đó nếu như có một “cử tử” người Trung Hoa nào khóc than về tình hình Chiến tranh tại “một mảnh đất của họ” thì đây cũng là chuyện dễ hiểu, dễ chấp nhận!
Hơn nữa, bài thơ ở đây nhằm để thương tiếc 2,000 quân binh thành Hứa Xương - tức quân binh của Trung Quốc điều động qua Giao Chỉ, cho nên nếu lập luận “cử tử” ở đây là một người Trung Hoa rồi dễ được chấp nhận hơn là lập luận ngược lại!
Về mặt lập luận chỉ cần có một sơ hở nhỏ thôi lập luận sẽ mất chỗ đứng [lập], để thành những lời nói vu vơ, vớ vẩn, hà huống sơ hở ở đây lại quá lớn!
Ở đây có thể thấy Lê Mạnh Thát muốn nói bài thơ này là của 1 người Giao Chỉ ái quốc làm ra để nói lên sự tàn bạo của triều đình Trung Quốc.
Lê Mạnh Thát nói chuyện ái quốc, tôi nói chuyện yêu nước cho Lê Mạnh Thát nghe.
Đất Giao Chỉ là của người Giao Chỉ, Trung Hoa đưa quân qua chiếm đóng, sáp nhập lãnh thổ của họ. Bây giờ giặc Nam Chiếu tràn qua cướp bóc xứ Giao Chỉ, Trung Quốc liền điều động quân binh các đất Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc - cộng tất cả là 30,000 quân lên đường giải vây. 2,000 quân binh thành Hứa Xương rồi tử trận không sót người nào!
(Về việc điều động 30,000 quân các đất Hứa, Hoạt, Từ, Biện, Kinh, Tương, Đàm, Ngạc kể trên, tham khảo phần chú giải của Hồ Tam Tỉnh (1230 - 1302), Nguyên triều :
~ Tư Trị Thông Giám. Qu. CCL. Ý tông. Hàm Thông tam niên, nhị nguyệt).
Và bỗng dưng có một anh chàng “cử tửxứ Giao Chỉ ở đâu nhảy xổ ra làm thơ thương tiếc 2,000 quân binh này! Điều ai cũng biết là Trung Quốc điều động quân binh qua đánh quân Nam Chiếu, giải vây Giao Chỉ, là nhằm tiếp tục cai trị xứ này, hiển nhiên! Bây giờ có một anh chàng “cử tử đâu nhảy xổ ra làm thơ than khóc quân của kẻ thù đang chiếm đóng nước mình, vậy thì có khác gì tiếc cho quân của kẻ thực dân kia sao không thắng để tiếp tục cai trị đất nước mình! Lòng “yêu nước” chi mà quái đản tới vậy Lê Mạnh Thát!!! Trên đời này lại có một thứ yêu nước lạ lùng đến thế sao?
(Hán Vũ đế xâm chiếm nước Nam Việt vào mùa Thu năm 111 trước Công nguyên, và đất Giao Chỉ là một phần của nước này, tới năm 862, năm Nam Chiếu, một lần nữa, đã tràn qua đánh phá Giao Chỉ thì Trung Hoa đã cai trị Giao Chỉ được 973 năm).  
Bài thơ ở đây nhằm bày tỏ lòng thương tiếc 2,000 quân binh tại thành Hứa Xương của Trung Hoa tử trận ở Giao Chỉ, Lê Mạnh Thát đã không thấy được điểm quan trọng này cho nên mới lập luận sai lạc, ngớ ngẩn, như đã chứng minh!
¸ Mấy giòng về bài “Thích An Nam Sự Thi”.
Bài thơ có tựa Thích An Nam Sự Thi nói trên được ghi lại trong Qu. DCCXXCIV (784) trong Tổng tập Toàn Đường Thi.
Ở đây, ban biên tập Toàn Đường Thi đã lầm lẫn trong việc tập lục là trước đó, ở đầu Qu. DCVIII (608) đã thu lục 3 bài thơ của Bì Nhật Hưu (~ 834 - ~ 883) có tựa đề chung là Tam Tu Thi, và đối chiếu thì thấy Bài “Thích An Nam Sự Thi” không gì khác hơn là bài Tu Thi” thứ 2 trong 3 bài đã kể, chỉ khác một điều là bài Tu Thi” 2 tất cả 34 câu trong khi bài “Thích An Nam Sự Thi”, như đã rõ, chỉ 22 câu, và 2 bài có một vài chữ chép khác, do sự sao đi chép lại, không đáng kể.
Nhóm biên tập “Toàn Đường Thi” phân ra sưu tập, thu lục sau khi hoàn thành sách đã  không có thời giờ kiểm lại những bài trùng để lược bỏ bài “Thích An Nam Sự Thi”.
Lê Tắc (? - ?) trong tác phẩm “An Nam Chí Lược” (Qu. XVI. Lịch đại danh hiền tạp đề) cũng ghi lại bài thơ kể trên, và cũng chỉ có 22 câu (thiếu 12 câu, từ câu 21 đến câu 32) như bài ghi trong “Bắc Mộng Tỏa Ngôn”, hơn nữa còn có 17 chữ chép khác.  
Ngoài ra, 3 bài “Tam tu thi còn thấy trong “Bì Tử Văn Tẩu” (Qu. X. Thi. Tam Tu thi). 
Vì vậy, có thể nói mà không sợ sai lầm là bài Tu Thi” 2 của Bì Nhật Hưu đã được trích dẫn trong một Sách nào đó, đã bị ngắt đi mất 12 câu (từ câu 21 đến câu 32) để làm dẫn chứng cho một vấn đề chính sự. 12 câu bị ngắt đi này thuần trình bày về bản thân và cảm nghĩ của Bì Nhật Hưu - không cần thiết cho mục tiêu của sự dẫn chứng, vì vậy người sử dụng đã ngắt đi. Và “Bắc Mộng Tỏa Ngôn” của Tôn Quang Hiến cũng chỉ đã dẫn lại bài thơ từ Sách nào đó. 
Vũ Thượng Thanh (Trung Hoa) khi điểm hiệu tác phẩm An Nam Chí Lược đã căn cứ bài Tu Thi 2 trong tập “Bì Tử Văn Tẩu” đã dẫn trên mà bổ túc 12 câu thiếu.
                                                                          *
Cứ thế Lê Mạnh Thát sai dài dài về Hán văn, đoạn dịch nào Lê Mạnh Thát cũng sai, và sai ở những lỗi căn bản nhất về ngôn ngữ này.
Nhưng, có lẽ chuyện quan trọng hơn hết là dầu biết khả năng Hán văn của mình chưa tới đâu Lê Mạnh Thát chẳng quan tâm, vì mục tiêu của Lê Mạnh Thát rồi không phải Học thuật. Ông Lê Mạnh Thát chỉ thích lý luận! Và lý luận của Lê Mạnh Thát trong cuốn LSPGVN là cái lý luận gọi là “lý luận trung tâm”, hay “lý luận xuôi xị” mà tôi đã cho thấy rất rõ trong 2 bài phê bình trước bài này.
Kiến thức Phật giáo, khả năng ngôn ngữ (Hán văn) thì như tôi đã chứng minh, vậy mà Lê Mạnh Thát lại ưa lý luận, bóp méo sự kiện để cố đưa vào cái khung thiên kiến - hay viết theo đơn đặt hàng của ai đó, đây là chuyện đáng nói nhất!
Đọc những lý luận trong tập LSPGVN người đọc nghe đâu văng vẳng trong đầu những câu lùng bùng nhĩ căn như “nhân dân ta anh hùng”, “trí tuệ ta là đỉnh cao”……
Nhưng, Lê Mạnh Thát quên một chuyện quan trọng là nếu kiến thức căn bản không có có lý luận chiều nào, hướng nào nữa thì với thức giả những lý luận này đến chẳng làm dấy lên 1 hạt bụi nào - hoặc nói theo Phật giáo là không làm dấy lên 1 vi trần nào cả! 

Minh Di.
31 tháng 8 năm 2011.
Ngày cuối cùng Mùa Đông Úc Châu.

 Thư Mục.

[1]. Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao.
Đường. Sa môn Trừng Quán soạn thuật.
Tài Đoàn Pháp Nhân Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội (ĐL)      Dân Quốc 86 niên (1997).
[2]. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Tùy. Trí Ngải sớ.
Đường. Trạm Nhiên ký.
Tống. Đạo Uy nhập sớ.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ)      1994 / 3.
[3]. Chú Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh.
Hậu Tần. Tăng Triệu đẳng chú
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1995 / 2.
[4]. Đại Đường Tây Vực Ký Hiệu Chú.
Đường. Huyền Trang. Biện Cơ.
Quí Diễn Lâm đẳng hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2008 / 4.
[5]. Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện Hiệu Chú.
Đường. Thích Nghĩa Tĩnh.
Vương Bang Duy hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2004 / 3.
[6]. Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện Hiệu Chú.
Đường. Thích Nghĩa Tĩnh.
Vương Bang Duy hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2004 / 2.
[6]. Pháp Uyển Chu Lâm Hiệu Chú.
Đường. Thích Đạo Thế.
Chu Thúc Ca. Tô Tấn Nhân hiệu chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2006 / 2.
[7]. Phật Học Đại Từ Điển.
Dân Quốc. Đinh Phúc Bảo.
Phúc Kiến Bồ Điền Quảng Hóa Tự      Phật lịch 2534 / Công nguyên 1990. [1921 / Sơ].
[8]. Tông Giáo Từ Điển.
Nhiệm Kế Dũ chủ biên.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã      1981 / Sơ.
[9]. Tư Trị Thông Giám.
Bắc Tống. Tư Mã Quang.
Nguyên. Hồ Tam Tỉnh chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1987 / 7.
[10]. Cựu Đường Thư. (1).
Ngũ Đại. Lưu Hu.
[11]. Tân Đường Thư. (2).
Triệu Tống. Âu Dương Tu.
Nhị Thập Ngũ Sử Bản.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1991 / 8.
[12]. Thông Điển.
Đường. Đỗ Hựu.
Thập Thông Bản.
Chiết Giang Cổ Tịch Xuất Bản Xã      2000 / Sơ.
[13]. Tiên Tần Chư Tử Hệ Niên (Tăng định Bản 1956).
Tiền Mục.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1985 / Sơ bản. 
[14]. Luận Ngữ Tập Chú.
Nam Tống. Chu Hi tập chú.
Thái Bình Thư Cục (HC)      1986 / 7.
[15]. Thủy Kinh Chú Sớ.
Nam Bắc triều - Bắc Ngụy. Lịch Đạo Nguyên Chú.
Dân Quốc. Dương Thủ Kính. Hùng Hội Trinh Sớ.
Giang Tô Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1999 / 2.
[16]. Cổ Đại Nam Hải Địa Danh Vị Thích.
Trần Giai Vinh. Tạ Phương. Lục Tuấn Lãnh.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2002 / 2.
[17]. Tây Vực Nam Hải Sử Địa Khảo Chứng Luận Trứ Vị Tập.
Dân Quốc. Phùng Thừa Quân.
Trung Hoa Thư Cục (HC)      1976 / Sơ.
[18]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập (Nhị sách. Tần. Tây Hán. Đông Hán).
[19]. Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập (Ngũ sách. Tùy. Đường. Ngũ Đại Thập Quốc).
Đàm Kỳ Tương chủ biên.
2 Tập Lịch sử Địa đồ ghi số hạng [18]. [19] trên đây:
Trung Quốc Địa Đồ Xuất Bản Xã (Tinh trang Bản)      1996 / 2.
[20]. Đường Lục Điển.
Đường. Lý Lâm Phủ.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1992 / Sơ.
[21]. Trung Quốc Lịch Đại Chức Quan Biệt Danh Từ Điển.
Cung Diên Minh.
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã      2006 / Sơ.
[22]. Giản Minh Trung Quốc Lịch Đại Quan Chế Từ Điển.
An Tác Chương chủ biên.
Tề Lỗ Thư Xã      1990 / Sơ.
[23]. Trung Quốc Độ Lượng Hành Sử.
Dân Quốc. Ngô Thừa Lạc.
Thượng Hải Thư Điếm (TQ)      1984 / Sơ.
[24]. Lễ Thư Thông Cố.
Thanh. Hoàng Dĩ Chu.
Vương Văn Cẩm điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2007 / Sơ.
[25]. Xuân Thu Khảo Dị Bưu.
Vĩ Thư Tập Thành Bản.
Nhật Bản. An Cư Hương Sơn. Trung Thôn Chương Bát tập lục.
Hà Bắc Nhân Dân Xuất Bản Xã      1994 / Sơ.
(Vĩ Thư là danh xưng chỉ chung những sách viết ra nhằm giải rộng ý nghĩa của Kinh, chủ yếu căn cứ Kinh nghĩa Nho gia, người thời Hán soạn, nhưng thác danh Khổng Tử (551 - 479 tr. Cn). Nội dung Vĩ Thư luận đoán họa phúc, cát hung, suy trắc lẽ hưng phế  và trị loạn của nhân sự, hầu hết là thêm thắt, với những luận đàm quái đản, vô căn cứ.
Danh xưng là nhằm đối với danh xưng KINH - như những sợi dệt dọc (Kinh) giao những sợi dệt ngang () trên một tấm vải. Thời Hán có 7 tác phẩm được liệt vào hàng KINH: - Dịch. Thư. Thi. Lễ. Nhạc. Xuân Thu. Hiếu, do đó Vĩ Thư cũng có Thất Vĩ, và mỗi lại phân nhiều tập, mỗi tập có một danh xưng khác. Vì lượng các Tập khá nhiều không tiện nêu hết ra đây, tôi chỉ nêu tổng số Tập của mỗi Vĩ Thư như sau:
~ *Dịch 28 Tập. Thư 29. Thi 04. Lễ 04. Nhạc 04. Xuân Thu 29. Hiếu Kinh 15).
[26]. Sơ Học Ký.
Đường. Từ Kiên đẳng.
Tư Nghĩa Tổ điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2004 / 2.
[27]. Bắc Mộng Tỏa Ngôn.
Ngũ Đại. Tôn Quang Hiến.
Giả Nhị Cường điểm hiệu.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2006 / 2.
[28]. Sự Vật Kỷ Nguyên.
Bắc Tống. Cao Thừa.
Minh. Lý Quả đính.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      1989 / Sơ.
[29]. Sở Từ Bổ Chú.
Đông Hán. Vương Dật chú.
Nam Tống. Hồng Hưng Tổ bổ chú.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2006 / 5.
[30]. Văn Tuyển.
Nam Bắc triều – Lương. Chiêu Minh Thái Tử (Tiêu Thống) tuyển.
Đường. Lý Thiện chú.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC)      1977 / trùng ấn.
[31]. Toàn Đường Thi.
Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc soạn.
+ Toàn Đường Thi Dật. Nhật Bản. Thượng Mao Hà Thế Ninh toản tập.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã (TQ)      1986 / Sơ.
[32]. Đỗ Thi Kính Thuyên.
Đường. Đỗ Phủ.
Thanh. Dương Luân tiên chú.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1998 / 2.
[33]. Hàn Xương Lê Văn Tập.
Đường. Hàn Dũ.
Thanh. Mã Thông Bá chú.
Trung Hoa Thư Cục (HC)      1975 / Trùng ấn.
[34]. Bì Tử Văn Tẩu.
Đường. Bì Nhật Hưu.
Tiêu Địch Phi. Trịnh Khánh Đốc chỉnh lý.
Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã      1981 / Sơ.
[35]. Vương Lâm Xuyên Toàn Tập.
Bắc Tống. Vương An Thạch.
Quảng Trí Thư Cục (HC)      (Nhà Xuất bản này không bao giờ ghi năm xuất bản).
[36]. Cổ Kim Xưng Vị Ngữ Từ Điển.
Trách nhiệm Chủ biên. Lý Giai Tuấn.
Trung Quốc Quốc Tế Quảng Bá Xuất Bản Xã (TQ)      1988 / Sơ.
[37]. Kinh Truyện Thích Từ.
Thanh. Vương Dẫn Chi.
Dân Quốc. Hoàng Khản. Dương Thụ Đạt phê ngữ.
Nhạc Lộc Thư Xã (TQ)      1984 / Sơ.
[38]. Khang Hi Tự Điển.
Thanh. Thánh tổ (Khang Hi) sắc soạn.
Lăng Thiệu Văn đẳng toản tu.
Cao Thụ Phiên trùng tu.
Linh Ký Xuất Bản Hữu Hạn Công Ty (HC)      1981 / Sơ.
[39]. Cổ Đại Hán Ngữ Tự Điển.
Vương Lực (1900 - 1986) chủ biên.
Đường Tác Phiên. Quách Tích Lương. Tào Tiên Trạc.
Hà Cửu Doanh. Tưởng Thiệu Ngu. Trương Song Đê.
Trung Hoa Thư Cục (TQ)      2003 / 4.
[40]. Từ Hải (Hợp đính Bản).
Chủ biên: Thư Tân Thành. Thẩm Di. Từ Nguyên Cáo. Trương Tướng.
Trung Hoa Thư Cục (HC)  1983 / Trùng ấn.
[41]. Từ Hải (Thái đồ Súc ấn Bản - 1999 Bản. Ngũ Quyển Bản).
Thượng Hải Từ Thư Xuất Bản Xã      2007 / 6.
[42]. Từ Nguyên (Súc ấn Hợp đính Bản. 1987 Bản).
Chủ biên: Quảng Đông. Quảng Tây. Hồ Nam. Hà Nam Tu đính Tổ.
Thương Vụ Ấn Thư Quán (HC) 1987 / Sơ. 
[43]. Từ Vị.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty Biên Thẩm Ủy Viên Hội biên tập.
Lục Sư Thành chủ biên.
Văn Hóa Đồ Thư Công Ty (ĐL) Dân Quốc năm 74 (1985) / Khuyết.
[44]. Kiến Văn Tiểu Lục. (Bản Hán Văn).
Việt Nam - Lê triều. Lê Quí Đôn.
Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú thích (Bản dịch có rất nhiều sai lầm).
Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam  2009 / Lần đầu.

                                                                        
READ MORE - PHÊ BÌNH CUỐN LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM CỦA LÊ MẠNH THÁT (KỲ III) - GS Minh Di