TRAI ANH HÙNG GÁI
THUYỀN QUYÊN
Nguyên Lạc
Lời nói đầu: Xin
được thưa cùng quý bạn: Các bài viết của Nguyên Lạc tôi không văn chương cao
xa, không triết lý hiện đại gì cả. Các bạn có thể tìm điều đó ở các bài đầy
sáng tạo của các tác giả trí thức khác. Các bài viết của tôi chỉ giành cho đa số
người bình thường, sau những giờ cơ cực vì cơm áo, có chút thời giờ rãnh rỗi
tìm chút ít nụ cười, quên đi nỗi mệt nhọc, rồi an giấc cho ngày sau tiếp tục
công việc hàng ngày.
Nếu bài tôi viết
có gì khó hiểu, nhạt nhẽo xin các bạn cho biết, tôi sẽ chỉnh sửa hoặc bỏ nó. Chủ
ý là đem lại vài nụ cười, chút niềm vui cho các bạn thôi. Nguyên Lạc tôi xin từ
chối những trách nhiệm ngoài chủ ý của mình.
Trân trọng,
NL
***
Trong Ca Dao Tục
Ngữ Việt Nam có câu:
Chim quyên xuống đất
ăn trùn
Anh hùng lỡ vận
lên rừng đốt than
Đốt than thì phải
sàng than
Làm sao đừng để lấm
gan anh hùng...
(Ca Dao Tục Ngữ Việt
Nam )
Trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du, lúc Từ Hải cùng Kiều gặp gỡ, có câu:
Trai anh hùng gái
thuyền quyên
Phỉ nguyền bói phượng,
đẹp duyên cưỡi rồng.
(Truyện Kiều)
Để giúp các bạn hiểu
rõ về từ "Anh hùng" và
"Thuyền quyên" có ý nghĩa gì, Nguyên Lạc tôi sưu tầm và viết
ra bài này.
I. ANH HÙNG
1. PHÂN TÍCH TỪ
"Anh"
trong "anh hùng' có nghĩa là tốt đẹp, tài hoa hơn người, kiệt xuất, xuất
chúng. Nghĩa gốc của chữ "anh" là loài hoa đẹp nhất.
Còn
"hùng" trong "anh hùng" có nghĩa là người dũng mãnh tài giỏi,
siêu quần, kiệt xuất.
Anh hùng: Nhân vật
phi phàm xuất chúng, chỉ người có kiến giải, tài năng siêu quần xuất chúng.
2. LUẬN ANH HÙNG
a. ĐỊNH NGHĨA
“Anh hùng là hành
động của một người vì đại cuộc, không xem sự sống chết của mình là quan trọng
tuyệt đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc, cho dù có phải chết thì vui
lòng đón nhận. Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm thành công không nằm
trong thuộc tính định nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ Heros trong các bộ
Encyclopedia thì biết. Đông Tây đều định nghĩa như thế” (Laiquangnam)(*)
b. LUẬN ANH HÙNG
Ta thử luận về vài
nhân vật nổi tiếng:
b1. KINH KHA
Nhân vật KINH KHA
này ai cũng biết qua việc hành thich TẦN THỦY HOÀNG ĐẾ.
Suy gẫm chuyện KINH KHA, ta thấy ông ta đâu phải là người
anh hùng.
Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi thích khách
Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh
Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ), đâu có
hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của người
khác.
Tại sao ông
ta lại được nhiều người làm thơ, hát ca
để ca tụng, vinh danh?!
Anh hùng là như Đặng
Dung của VIỆT NAM ta đây, ta hãy thử luận
về nhân vật này.
b2. ĐẶNG DUNG
Quốc thù vị báo đầu
tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền
đái nguyệt ma.
(CẢM HOÀI - Đặng
Dung)
Thù trả chưa xong
đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt
biết bao rày.
Theo Đại Việt sử
ký toàn thư: Các vị anh hùng (dưới sự lãnh đạo của Đặng Dung) đã đánh nhau ròng
rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một binh lực hơn hẳn mình. Có lúc họ cũng
đã thắng nhiều trận lẫy lừng, tưởng chừng như đã thắng, nhưng dài hơi thì cuộc
đọ sức đã không cân sức. Than ôi! họ đã bại trận!. Trên đường bị bắt đưa về Yên
Kinh ( Bắc Kinh ngày nay) để làm nhục, vua tôi Đặng Dung đã ca hát như không có
chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với người tráng sĩ một khi họ
đã toàn tâm toàn ý , hết lòng, hết sức vì dân tộc. Đặng Dung, trong vai trò
lãnh đạo cuộc kháng chiến, đã ngâm cho vua tôi nghe khúc ca cảm khái này, vừa
ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và sẵn sàng đón nhận mọi sự trả
thù tàn bạo của kẻ thù.
Đây là bài thơ CẢM HOÀI (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng
Dung ngâm
CẢM HOÀI
Thế sự du du nại
lão hà
Vô cùng thiên địa
nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chúa hữu hoài
phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn
thiên hà
Quốc thù vị báo đầu
tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền
đái nguyệt ma.
Tạm dịch nghĩa:
NỖI NIỀM HOÀI BÃO
Thế sự mang mang
lại tuổi già
Thiên hạ thì vô
cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời đến bọn đồ tể,
bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời qua anh hùng
cũng đành nuốt hận
Hết lòng vì chúa
có hoài bão xoay trục đất
Rửa giáp binh
không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù nước chưa báo
thì đầu bạc trước
Bao thời qua đội
trăng mà mài kiếm long tuyền.
Bài thơ này là một
bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế sự, trong ấy thể hiện rõ phong cách của
người tráng sĩ, người anh hùng trong cơn quốc nạn.
Vua Lê Thánh Tôn
có tặng cho dòng dõi họ Đặng hai câu thơ:
Quốc sĩ vô song,
song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị,
nhị anh hùng
b3. HAI BÀ TRƯNG /
MÃ VIỆN.
Vì Chùa thờ Mã Viện
(Phục Ba Tướng Quân hay Mã Phục Ba - ở Hội An /QN) được báo kê bởi chính vị
vua thời Nguyễn Gia Long (năm 1838 Vua
Mình Mạng), thế nên Lê Ngộ Cát mới viết Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (tác phẩm trường
thi, sử thi, diễn đạt Việt Sử bằng thơ Lục Bát, từ đời Hồng Bàng đến cuối đời
Tây Sơn.) ngợi ca Mã Viện, đánh giá thấp Hai Bà Trưng. Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn
Ca có 22 câu thơ nói về cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng (Bà Trưng quê ở Châu Phong…) Câu thứ 16:
“Nữ nhi sánh với anh hùng được sao?”
Trong câu này, có
2 danh từ chung kép : “Nữ nhi” và “Anh
hùng”. Điều chắc chắn rằng người đọc ai cũng hiểu: “Nữ nhi” chỉ HAI BÀ TRƯNG, còn “Anh hùng” chỉ viên tướng Tàu tên MÃ VIỆN.
Ta thử luận về việc
"ANH HÙNG" của nhân vật MÃ VIỆN mà ông Lê Ngộ Cát ngợi ca:
Như chúng ta đã biết
trong sử Việt: Tô Định (nhà Đông Hán)
sang xâm lấn Việt Nam; đụng phải sự khôn ngoan, kiên cường của hai bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị; hắn phải bỏ
của chạy lấy người, chui vào ống đồng trốn thoát , vọt về lại Phương Bắc.
Hai Bà đuổi xâm
lăng, dành độc lập dân tộc trong 3 năm {40 – 43) Hai Bà Trưng cầm quân khí thế
đến nỗi Nhà Hán đă thống nhất nước Tàu , thâu tóm nước Ngô Sở, sau thâu tóm các
giòng Việt thuộc Việt Câu Tiển, trừ đất Lĩnh Nam của dân Lạc đă có văn hóa
riêng. Hai Bà đánh đau và dữ dội đến nỗi mà các tỉnh lân cận đều sợ. Vua Hán phải
điều Mă Viện và các tưởng dạn dày chinh chiến ở chiến trường Tây Bắc, lính
chính quy, lực lượng tống trừ bị mang quân qua đàn áp. Mã viện phải gần ba năm (40 – 43) chuẩn bị,
huấn luyện đánh phổi hợp thủy bộ với đạo quân nữ giới này.
Không những thế mà
họ huy động đạo quân đông đảo và đã để lại đất Lĩnh Nam 20 ngàn dân công đầu trộm
đuôi cướp. Cứ trung bình một dân công phục vụ cho 10 người lính. Tính ra thì đạo
quân này ít nhất trên dưới 20 vạn quân (hai trăm ngàn). Đông hơn dân Lạc thuở ấy.
Hai nữ Anh hùng
đang đánh với quân chủ lực của một nước Tàu xem như Đại Cường trên thế giới,
bên cạnh dế quốc La Mã (Roma). Hai Bà thua trận vì tiềm lực quốc gia ta nhỏ bé
quá, trong khi Tàu quyết tâm huy động toàn lực lượng dân tộc Hán.
Mã Viện anh hùng
chỗ nào?
Anh hùng là hai Bà
đấy, dám lấy sức “châu chấu đá voi”.
Và những người xứng
đáng với chữ ANH HÙNG là các vĩ nhân VN: Lý Thuờng Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn
Huệ...
II. THUYỀN QUYÊN
1. NGUỒN GỐC CHỮ
THUYỀN QUYÊN
Thuyền Quyên là một
học trò nữ của nhà thơ Khuất Nguyên (Trung Quốc). Khi Khuất Nguyên định can Sở
Hoài Vương không nên nghe theo thứ phi và Thượng quan Ngân Thượng (quan đại phu
nước Sở), đang thông đồng với giặc mưu chiếm nước Sở, thì bị bà thứ phi này
dùng tiền, vàng mua chuộc triều đình phao tin rằng Khuất Nguyên phát điên. Từ
đó, không ai nghe lới Khuất Nguyên cả. Khuất nguyên bất lực , quẩn trí và trầm
mình tại sông Mịch La . Về sau vua Sở bị cầm tù nơi Tần . Và nước Sở tiêu .
(**)
Lúc nhà thơ bị mọi
người tránh xa, chỉ có Thuyền Quyên một lòng hầu thầy, vì nàng cũng đã yêu thầy.
Thuyền Quyên chịu đựng biết bao áp lực của dư luận để trọn tình! Do đó, đời
sau, thấy cô gái nào lận đận trong tình yêu thì nói rằng "đó là phận gái
Thuyền Quyên", nghĩa là thân phận giống nàng Thuyền Quyên ngày xưa. Như
nàng Kiều trong "bài ca mới đứt ruột" (Đoạn Trường Tân Thanh) của
Nguyễn Du.
2. GÁI THUYỀN
QUYÊN
Chữ "thuyền
quyên" trong cụm từ "gái thuyền quyên" là một danh từ được sử dụng
như tính từ. Hiện tượng này rất hay gặp trong tiếng việt: Khi danh từ được phổ
biến rộng rãi thì trong khi nói hoặc viết, nó có thể thay thế cho động từ, tính
từ. Hoặc tính từ dùng như danh từ và động từ hoặc động từ dùng như danh từ và
tính từ.
Chữ thuyền quyên
xuất phát từ danh từ riêng, rồi được dùng như tính từ để chỉ người con gái
công, dung, ngôn, hạnh. Trong Truyện Kiều có câu:
Trai anh hùng gái
thuyền quyên
Phỉ nguyền bói phượng,
đẹp duyên cưỡi rồng.
Xưa ở Hà Nội cũng
có một ông cụ tên là Phúc Hậu. Ông hay đi tìm giúp trẻ lạc rồi đưa về trả lại
cho bố mẹ chúng - nói chung là tốt tính. Sau này, trong dân gian hay dùng từ Phúc Hậu để chỉ tính cách của những
người tốt bụng.
Học trò ngày nay cũng sáng tác ra nhiều thể loại
văn thơ nghịch ngợm, không biết là tốt hay xấu. Đây là một câu tìm được trên
blog, xin đưa lên đây để các bạn cùng cho ý kiến:
"Trai ăn cắp,
gái giang hồ
Chung tay xây dựng
cơ đồ lưu manh"
Nguyên Lạc, 8/2017.
(Bài tiếp: Đẹp duyên cưỡi rồng)
Tham khảo: Sử Ký Tư Mã Thiên (bản dịch của Nguyễn Hiến
Lê), Đại Việt sử ký toàn thư, Laiquangnam, TS Phạm Trọng Chánh, Thi Viện,
Wikipedia, Net, FB...
(*) LUẬN ANH HÙNG
http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_luananhhung1.htm
(**) Nguyễn Du làm
bài thơ "Phản chiêu hồn" (chống lại việc chiêu hồn) trong một chuyến
đi sứ Trung Quốc vào đầu thập niên 10 của thế kỷ 19,; khi đi ngang qua sông Mịch
La, người nhớ tại nơi đây Khuất Nguyên đã trầm mình.
Đây là bốn câu cuối
của bài "Phản chiêu hồn"
Hậu thế nhân nhân
giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai
Mịch La,
Ngư long bất thực,
sài hổ thực,
Hồn hề! Hồn hề! nại
hồn hà?
Người người đời
này đều họ Thượng Quan
Nơi nơi đất đều là
sông Mịch La
Cá rồng không ăn,
thì lang sói ăn
Hồn ơi hồn, hồn
tính sao ?
- Thượng Quan là họ
của Ngân Thượng, ông là quan đại phu nước Sở đã dâng đất cho Tần (China là từ
chữ Tần mà ra ), xúi vua xa lánh Khuất nguyên, Ngự sử đại phu. Thượng quan Ngân
Thượng và đồng bọn thao túng vua Sở, làm khổ dân để vinh thân phì gia. Vua Sở
dại nghe theo. Vua sở bị cầm tù nơi Tần . Và nước Sở tiêu .
- Mịch La là vị trí hợp lưu của hai nguồn sông là Mịch
và La (tỉnh Hồ Nam), nơi đây Khuất nguyên bất lực, quẩn trí và trầm
mình.