Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, March 9, 2022

THÁNG BA HOA ĐIỆP VÀNG… - Thơ Trần Mai Ngân

 
 
 

THÁNG BA HOA ĐIỆP VÀNG…

 
Giữa Sài Gòn
Xe cấp cứu đang vội vã hú còi
Tháng Ba hoa Điệp vẫn vàng rực rỡ
Nắng chang chang đốt tình ta hấp hối
Em bước đi đôi chân còn bỡ ngỡ
 
Trong cơn giông
Giữa ánh chớp nghiệt ngã của số phận
Em chợt nhìn ra anh và dừng lại
Gom những tin yêu gửi gắm hết vào
Nhưng cuộc đời không giống giấc chiêm bao…
 
Em chơi vơi
Khi chợt hiểu ra… Để từ đó
Lặng lẽ nói cười, lặng lẽ nát tan
Tháng Ba hoa Điệp vẫn rực vàng
Em lặng lẽ nói cười, lặng lẽ nát tan…
 
Trần Mai Ngân
 
READ MORE - THÁNG BA HOA ĐIỆP VÀNG… - Thơ Trần Mai Ngân

HÁT KHÚC ĐỒNG XANH, ĐỨA TRẺ ĐỒNG LÀNG – Thơ Tịnh Bình


 
                       Nhà thơ Tịnh Bình

 
HÁT KHÚC ĐỒNG XANH
 
Nhắn gì lời chim manh manh ?
Ta về tìm lại đồng xanh thiếu thời
Năm mười đã vãn cuộc chơi
Đâu bầy trẻ nhỏ ời ời gọi nhau
 
Quê hương cắt rốn chôn nhau
Lũy tre bóng hạ bờ ao mưa về
Đồng trưa che cái nón mê
Trâu nằm hóng mát ven đê giấc nồng
 
Nhắn gì se sắt hơi đông
Sương giăng trắng ngõ bếp hồng reo vui
Củ khoai biếng nhác nằm vùi
Mẹ cời que bếp ngọt bùi tro than
 
Những mùa ve đổ râm ran
Thơm hương nấm mối tập tàng canh rau
Qua sông con sáo buồn sao
Rụng bông điên điển dàu dàu niềm quê
 
Chạnh lòng điệu lý tái tê
Đàn bầu nhỏ giọt hiên quê trăng vàng
Đêm thu khúc dế tình tang
Ngẩn ngơ lòng khế mơ màng bưởi chanh
 
Ta về hát khúc đồng xanh
Thương con diều giấy quẩn quanh bay vòng
Bời bời lau trắng triền sông
Hóa thành tóc mẹ dòng dòng bạc phau...
 
 
ĐỨA TRẺ ĐỒNG LÀNG
 
Những lọn khói lẫn vào hoàng hôn
Mùi rạ rơm quyện bùn nâu không quên được
Nứt toác chân cha
Chai sần tay mẹ
Nên vóc hình tôi - Đứa trẻ đồng làng
 
Đợt đợt mùa màng tiếp nối
Ngọn lúa cong mình âu lo
Nhọc nhằn cơm áo
Tíu tít gió đồng
Khi những mùa vàng rực chín
Lấp lánh mắt cha
Đêm tôi chong đèn học muộn...
 
Cánh diều reo vẫy giữa bao la
Chú cá nhỏ một mình qua ghềnh thác
Gió chạy căng đồng ước mơ thành hiện thực
Tạm biệt đồng làng bóng mát lũy tre xanh
Hành trang con -  đong ánh mắt mẹ ân cần
 
Ngày trở lại xốn xang mùa gió
Lá vườn xưa kỷ niệm rơi đầy
Chợt thấy mình như dây bầu dây bí
Mãi lặng thầm bám chặt đất quê...
 
TỊNH BÌNH
(Tây Ninh)
 
READ MORE - HÁT KHÚC ĐỒNG XANH, ĐỨA TRẺ ĐỒNG LÀNG – Thơ Tịnh Bình

RƯỢU VỚI BẠN - Thơ Đặng Xuân Xuyến

                                 


                                RƯỢU VỚI BẠN

                     - tặng Đỗ Tuân, bạn tôi -

 .

Nào thì chén nữa, thêm chén nữa

Uống cạn đêm nay cho đã thèm

Tao mày đằng đẵng bao niềm nhớ

Ngán đếch rượu kia khuấy say mèm.

 .

Ừ, mày chửa say, tao chửa say

Mấy chuyện oán ân khó tỏ bày

Thiên hạ đo tình bằng đọ của

Nào uống đi mày, nuốt đắng cay.

 .

Thì bởi tâm mày trọn Thẳng Ngay

Tao mải loay hoay chọn Nghĩa Tình

Mà đời những rặt trò gian lận

Tao mày nếm đủ những gian truân.

 .

Ừ uống đi mày. Uống để say

Dốc cạn đêm nay với chén này

Niềm đau cố dán vào đáy chén

Thôi uống đi mày. Uống nhé, say.

*.

Hà Nội, đêm 07 tháng 3-2022

ĐẶNG XUÂN XUYẾN


READ MORE - RƯỢU VỚI BẠN - Thơ Đặng Xuân Xuyến

HAIKU THƠ - Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử

 

Nhà thơ Chu Vương Miện

HAIKU THƠ

Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử

“Gửi Lão hữu Nguyễn Bàng."



Cây cuối mùa thay vỏ thay lá

Người cuối đời y vậy già thêm

Chuyện lẽ thường?


Đầu núi mùa đông tuyết phủ xoá

Đầu ngừơi già tóc bạc hơn bông

Sang xuân đỉnh núi xanh lại? người không


Trong núi toàn mây trắng

Ngoài núi cũng vậy?

Mây trắng bay đi, núi còn trơ đây?


Nơi nhị tỳ toàn quạ khoang

Con đậu trên bia đá, con trên mộ

Quạ khoang bay đi còn vòng hoa


Sông vốn không tuổi

Người trẻ rồi già? 

Sông ở lại với đất? người đi cõi xa


Núi cao và xanh

Không ai rõ là núi bao niên

Người mới đó đã già


Núi sông & người

Cùng nhau 1 cõi đời

Người tồn tại có lúc “núi sông còn hoài“



Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử




READ MORE - HAIKU THƠ - Chu Vương Miện & M.Loan Hoa Sử

10 NHÂN VẬT CỦA NHÀ VĂN KIM DUNG - Thơ Trần Đức Phổ

 

Nhà văn Kim Dung



1.  Nghi Lâm


Một tiểu ni cô chốn cửa thiền
Tâm thành mà dạ chẳng hề yên
Hoa rơi hữu ý trong thầm lặng
Nước chảy vô tình giữa lãng quên
Đức hạnh sư môn chưa vẩn đục
Tấm lòng bồ tát mãi y nguyên
Hồi chuông mầu nhiệm Hằng Sơn phái
Tịnh độ cho đời bớt nghiệt duyên.

.

2.  Quách Tường


Chào đời giữa chiến loạn Tương Dương
Xinh đẹp ranh ma nết quật cường
Khí phách anh hùng nòi Quách Tĩnh
Tâm tư mẫn tiệp trí Hoàng Dung
Mộng đời hiệp lữ thành tro bụi
Ngộ cảnh sum vầy tựa khói sương
Mở phái Nga My truyền kiếm pháp
Non xanh nước biếc cũng vô thường.

.

3.  Triệu Mẫn


Quận chúa thay cha trấn cõi ngoài
Thông minh đảm lược kém chi ai
Binh hùng răm rắp chờ nghe lệnh
Tướng giỏi sẵn sàng đợi khiến sai
Lòng chứa non cao mưu vĩ nghiệp
Tâm mang biển lớn dụng anh tài
Trước sau cũng vẫn là xuân nữ
Nên thích chàng Trương vẽ nét ngài.

.

4.  Tiểu Long Nữ


Cổ mộ con tim vẫn ngọt ngào
Chàng Dương diễm phúc lạ lùng sao!
Mối tình phi lễ người ghi khắc
Trái cấm vô duyên kẻ chạm vào
Đáy cốc lãng quên niềm tủi nhục
Chân trời hành hiệp mộng tiêu dao
Tấm lòng ngọc nữ như băng tuyết
Mười sáu năm dài chịu khổ đau.

.

5.  Lý Mạc Sầu


Lối ái đường yêu khó cưỡng cầu
Xa miền Cổ Mộ biết về đâu?
Tình yêu thuở nọ nồng nàn thắm
Thù hận ngày kia chất ngất sầu
Nuốt lệ vung gươm duyên khó dứt
Nhớ người tạo nghiệt oán dài lâu
Ngậm cười lửa đỏ vùi thân ngọc
Phận bạc hồng nhan khổ ví dầu.

.

6.  Nhạc Bất Quần


Cứ tưởng thanh cao lại quá bần
Lừa trò phản bạn để vinh thân
Hoa Sơn chửa xứng danh quân tử
Ngũ nhạc uổng làm kẻ tiểu nhân
Ngậm máu phun người khôn hóa dại
Giấu tay ném đá quỷ nên thần
Vong tình thất đức phường gian xảo
Thiên hạ cười chê Nhạc Bất Quần!

.

7.  Lệnh Hồ Xung


Đã từng đệ tử phái Hoa San
Trót lỡ lầm tin Nhạc Bất Quần
Chén rượu sư đồ men nước lã
Mối tình mai trúc lớp tro than
Chín đường tuyệt kiếm siêu thần tốc
Một khúc cầm tiêu nặng nghĩa ân
Ma giáo Thánh cô không ghé mắt
Lệnh Hồ mãi mãi chịu hàm oan? 

 .

8.  Hư Trúc


Một nước cờ may phút bốc đồng
Tiểu tăng Hư Trúc đại thành công
Chân truyền tuyệt học Vô Nhai Tử
Thống lĩnh môn đồ Phiếu Mẫu phong
Tây Hạ giai nhân mơ hóa thực
Thiếu Lâm phụ mẫu có mà không
Thanh trừng phản nghịch Tiêu Dao phái
Cùng vợ vui vầy Linh Thứu cung.

.

9.  Mộ Dung Phục


Phục quốc nhiều đời vẫn ước mơ
Mộ Dung hiển hách đất Cô Tô
Thường tình nhi nữ đành xem nhẹ
Trách nhiệm anh hùng chẳng dám lơ
Mấy kẻ dời non cao thỏa chí?
Bao người khuấy nước lã nên hồ!
Gậy ông tuyệt kỹ khôn thành dại
Bá nghiệp ngàn thu chút bụi mờ.

.

10. Trương Vô Kỵ


Cuộc sống êm đềm ở đảo băng
Mồ côi cha mẹ lúc hồi hương
Quần hùng bạc vía Quang Minh Đỉnh
Tuấn kiệt bay hồn Núi Võ Đương
Phụ bạc ân tình Chu Chỉ Nhược
Phỉ nguyền ước mộng Triệu cô nương
Thà về kẻ mắt cho người đẹp,
Hơn soái tinh binh giữa chiến trường.


--
tranducpho
ducphot946@gmail.com

READ MORE - 10 NHÂN VẬT CỦA NHÀ VĂN KIM DUNG - Thơ Trần Đức Phổ

ĐI TÌM, CHÚT THÔI, NỖI CÔ ĐƠN, BỂ DÂU – Thơ Nguyên Lạc

 
 
                Nhà thơ Nguyên Lạc
 

ĐI TÌM
 
Đi tìm một thuở đã xa
Bước chân vô vọng phù hoa chợ người
Mong manh tình hạt sương rơi
Phù du nhân thế biết rồi trùng lai
Thì thôi một tiếng thở dài
Làm sao níu được mây bay lưng trời?
 
Đi tìm tôi lại thấy tôi
Ngu ngơ tình đó một đời cuồng si
Đài trang dáng mộng xuân thì
Trong em tôi có chút gì không em?
Tình rồi em chắc đã quên!
 
 
CHÚT THÔI
 
Chút thôi thoảng một chút thôi
Chút thương chút nhớ một thời chúng ta...
Chút thôi dù chỉ mù sa
Chút thôi cũng đủ cho thơ vướng sầu
 
Chút thôi một chút thật sao?
Chỉ là một chút sao đau một đời?
 
 
NỖI CÔ ĐƠN
 
1.
Quán vắng chiều mưa bay lất phất
Phố chiều nay hiu hắt rất buồn
Người sẽ đến? Làm sao biết được?
Chỉ một điều rất rõ: Cô đơn!
 
2.
Cô miên mới thấm nỗi cô đơn
Lữ khách sầu đêm rượu nhớ quên
Điệp khúc muôn trùng âm vọng gọi
Tay ôm huyễn mộng nhớ mùi hương
 
 
BỂ DÂU
 
1.
Bể dâu tàn mộng thanh xuân
Người vào trại thảm còn xanh mái đầu
10 năm màu tóc phai mau
Rừng sâu về lại phố nào tình nhân
Phố xưa giờ của người dưng
Quán xưa hò hẹn đã từng... còn đâu!
Cố nhân mù dấu phương nào?
Dã nhân ôm ngực nhói đau màu cờ
 
2.
Cố hương về lại thăm người
Tóc huyền, áo trắng...?  Đâu rồi tuổi xuân?
Thương ai bạc nắng còng lưng
Đoạn trường dâu bể não nùng đời em!
 
Nguyên Lạc

READ MORE - ĐI TÌM, CHÚT THÔI, NỖI CÔ ĐƠN, BỂ DÂU – Thơ Nguyên Lạc

THÁI HẠO, TIẾNG NÓI MỚI, VANG RỀN - Nguyễn Đức Tùng

 


Thế giới thường xuyên thay đổi, nhưng chưa bao giờ thay đổi nhanh đến thế, như trong những năm qua. Dịch bệnh, chiến tranh, tra tấn, dân tộc chia rẽ, môi trường thiên nhiên bị tàn phá đến cùng kiệt. Con người ngày càng tham lam, ngày càng sống hời hợt và giả dối.
Và bên dưới tất cả những thứ ấy, có một điều gì sâu hơn nữa, sâu xa nhất, chi phối tất cả: sự sợ hãi.
 
Tại sao chúng ta sợ hãi?
Tôi đã tự hỏi ngàn lần
Tại sao chúng ta sợ hãi?
Loài linh trưởng trong tôi gào thét
Đại ngàn trút lá
Tôi thèm làm người
Nguyên sinh
Trăng vỡ trên đỉnh trời
Tại sao chúng ta sợ hãi?
Câu hỏi làm tôi nổi giận
Thèm một que diêm
để châm lửa vào cánh rừng
 
Sau khi đọc bài thơ trên của Thái Hạo, một người đọc không thể hoàn toàn dửng dưng như trước nữa, người ấy có những cảm xúc mới, ý nghĩ mới. Cũng vậy, truyền thống văn chương nâng đỡ một nhà thơ, và cùng lúc giam hãm nhà thơ ấy. Ngôn ngữ là lịch sử, là tiếng nói còn lại qua thời gian, va đập bởi nhiều thử thách, sống sót, thay đổi, và đi tìm hướng đi mới. Một bài thơ bao giờ cũng cần được viết từ cách nhìn ấy, là những bài thơ khác viết lại, là sự thay thế, và hiểu lầm, làm mới và làm mới lần nữa. Một bài thơ hay ở lại với chúng ta, dù với ngôn ngữ thô ráp hay thanh nhã, trữ tình hay phản kháng.
 
Trong vườn mùa thu
cỏ dại mọc đầy
lời của tháng tám
xanh rì
dáng bố ngồi như đá trăm năm
Ta đến phương Nam một ngày mùa đông
chuông giáo đường đổ liên hồi trong trời thẳm
thấm thoát
tuổi ba mươi
 
Thơ Thái Hạo chỉ ra sự khác biệt giữa các cá nhân, đi tìm sự nối kết giữa họ. Thơ ấy làm phong phú trí tưởng tượng, tăng cường suy nghĩ bằng hình ảnh. Đó là một loại thơ đòi hỏi chú ý. Khi bạn chú ý, thời gian dừng lại, không gian sâu rộng hơn, mở ra sự thật. Sự thật trong thơ là điều chúng ta đi tìm, nhưng đó là một sự thật có tính biểu tượng. Sự thật của thơ nằm trong ngôn ngữ của nó. Thơ Thái Hạo không mạnh về tính âm nhạc, hầu hết là thơ tự do, một tình hình phổ biến hôm nay. Nhịp điệu của thơ anh không du dương êm ái, nhưng khi bạn đọc kỹ, bên dưới các chữ có một dòng chảy.
 
Tôi ngồi trong tiếng kèn đêm
thổi linh hồn một thiếu niên
vừa đi qua cuộc đời
trên đất nước tôi
Tiếng kèn buốt vào đêm đông
sừng sững
tội ác
và nhục hình
đòn roi
quất vào tuổi thơ
Tôi muốn viết một bài thơ thật đẹp về con người
nhưng con người đã chết
 
Bài hát và tiếng khóc đêm tối, tiếng kêu của thiên nhiên thời tiết. Trong thơ anh, một điều gì đang mất đi, một điều gì sẽ mất. Xưa nay trong lịch sử, các nhà độc tài bao giờ cũng có quan hệ căng thẳng bất thường đối với giới nghệ thuật: hoặc thù địch hoặc lợi dụng họ. Nhưng văn học là các diễn ngôn bên lề. Văn học không tham dự vào đời sống, không yêu sách, không ra lệnh, không kêu gọi, không hướng về đám đông tuân phục. Văn học là tiếng nói của từng cá nhân, từ bên trong và đến với bên trong. Thơ trữ tình càng thế. Thơ mang lại những kinh nghiệm tươi mới, cụ thể, thay đổi theo tình cảnh con người. Chúng ta biết rằng không có những tình cảm tuyệt đối phổ quát, không có lòng yêu thương chung chung, mà những tình cảm ấy, những nhận thức ấy bao giờ cũng được đặt vào một hoàn cảnh riêng biệt, một môi trường văn hóa và chính trị cụ thể. Đọc thơ can dự vào việc tạo ra những xúc cảm căng thẳng và lành mạnh, như thế. Ngôn ngữ thơ không có tính đại cương, chúng mang lại cảm giác về cái riêng biệt, mặc dù văn chương vốn là sản phẩm của trí tưởng tượng.
 
Tôi thấy mình và những linh hồn thành cơn bão
cuồng nộ
quét sạch bạo chúa
quét sạch tham tàn
quét sạch những loài quỷ man di
tôi xé tôi thành ngàn mảnh
như những mảnh gươm
băm nát những sợi xích khổng lồ cắn vào da thịt
băm nát những chiếc loa trên cột điện dối trá
Tôi làm cơn mưa rừng
rửa sạch thân thể quê hương lấm lem
rửa sạch hồn người khổ đau
rửa sạch thế kỷ bịp bợp
rửa sạch những giọt nước mắt
cho mi xanh lại
cho mắt em trong vắt một sớm mùa thu
Những linh hồn cùng tôi thổi một cuồng phong
cho da thịt lành lại
cho vỡ nát ngục tù
đập tan những ngai vàng
dành lại những lâu đài lãnh chúa
cho em bé làm trường
cho thiên chúa phục sinh
cho thần tự do cầm đuốc trong lòng Hà Nội
một Hà Nội tôi đã gặp em
trong những câu hát phố cổ
những câu hát hồ Tây
 
Đó là anh viết về tự do. Có nhiều bài thơ đặt người đọc trước những tình cảnh bi phẫn, mang họ đến chân tường. Những bài thơ như thế làm người đọc bối rối, tranh cãi, và làm thay đổi nhận thức của họ. Thơ Thái Hạo là một loại thơ hiện đại, có yếu tố hậu hiện đại, được viết dưới ánh sáng của kiến thức, lương tâm, phán xét xã hội. Thơ tự do, nhưng nhiều câu thơ ẩn chứa một nhạc điệu nhanh, mà nhẫn nại. Niềm vui của văn bản là giây phút khi ý tưởng, xúc động, thân xác hòa làm một dưới tác động của nhịp điệu. Đôi khi chúng ta muốn đi theo một con đường, nhưng nghệ thuật thay đổi hướng.
 
lời kinh lẫn trong đá
trong cỏ
trong những vì sao rụng mỗi đêm
Bố ngồi bên bờ núi
vách đá sừng sững
mưa và sương muối
 
Anh giữ cho mình trạng thái cô độc, độc lập, không lôi kéo sự chú ý của người khác, khiêm tốn và kiêu hãnh theo đuổi đến cùng xúc cảm của riêng mình. Anh đi theo những con đường ấy, một mình, vừa rời bỏ xã hội như một kẻ từng cô lập, vừa trở lại với xã hội như người làm chứng, như nạn nhân, đôi khi như kẻ đưa tin.
 
Tôi về
Trăng trong vắt dưới đáy giếng
Nơi con cá rô tôi thả năm xưa
Gầy khô
Chỉ có chiếc đầu là to vĩ đại gắn trên cái thân bé tí
 
Thơ Thái Hạo có những giây phút đẫm vị thiền, tan rã, hư vô, như tiếng chuông. Đó là một loại thơ trữ tình – viễn kiến, xuyên thấu kiến thức, làm cho tình trạng trữ tình của sự vật được chiếu lên bề mặt ý thức. Tuy vậy thơ anh không phải là một tuyên ngôn. Nhiều hơn, đó là một tình cảm được ẩn giấu như những ngọn núi sau mây. Đọc Thái Hạo, một người đọc có thể tìm cách nhìn thấy phía sau các chữ khá mới của anh, sự u sầu lãng mạn gần với cổ điển, sự hoang dại, nỗi buồn bất tận kiếp người.
 
tôi đi vào thành phố. không thấy bóng con người
những chùm hoa móng rồng đỏ
treo như những cái móc sắt nung
trong ngày đầu tháng 7
mưa xám
tôi tìm một cái gốc cây và ngồi xuống bên cạnh những ông địa
lẫn với Chúa
Phật. Bồ Tát
Và những ông thần tài
lô xô đứng
ngồi
nằm
gió thổi vào bộng cây ú ớ
những chùm móng rồng đỏ. cháy rực trong mưa
phố không bóng người
chỉ có những chiếc nón lá và những chiếc ô rách
gió thổi bay tung trên đường cái
tôi dựng dậy những pho tượng
thủa bé
đồ hàng
cho tượng cưới nhau
 
Một bài thơ có nhiều cách đọc, nhiều góc nhìn, tự nó là một văn bản mở, bao giờ cũng vậy, nhưng ở Thái Hạo văn bản ấy rất mở. Không phải chỉ có những câu thơ hiển lộ, các hình ảnh rõ ràng, mà còn đằng sau những chữ ấy sự phản ứng đầy hài hước của một người nhiều xúc cảm. Thách thức, chế nhạo, châm biếm xuất hiện ngày một nhiều. Sự kết hợp giữa giọng điệu hài hước và tính u sầu là một trong những kết hợp kỳ lạ của thơ anh.
 
Đái vọt xuống hồ sâu
Trăng vỡ
Tiếng ếch rộ lên
Nhạc trời hổn hển
Ái ân rền trên nước
Đao Lợi một cõi mênh mông
Thu về trú xứ miền hồng trần ai
 
Khác với hài hước cổ điển, hướng về người khác, hài hước đương đại hướng về chính mình. Anh giữ được thăng bằng giữa chủ quan của người nghệ sĩ và cách nhìn sự vật khách quan giàu triết học. Thơ Thái Hạo là một thứ thơ nhân chứng. Những bài thơ xuất hiện gần đây của anh đều cho thấy một bút pháp ổn định, về hướng ấy, và ít thay đổi, một cảm giác về tính đối thoại. Giọng của anh có khi sôi nổi, nhiệt tình nhưng phần lớn là tỉnh táo, gần như lãnh đạm, đó là một giọng thích hợp cho loại thơ nhiều suy tư hàm chứa các dữ kiện. Chúng ta đánh mất niềm tin. Con người đánh mất văn hóa, đất nước đánh mất tài nguyên. Chúng ta đau xót và phẫn nộ, trong khi ấy họ vẫn phải sống, vẫn phải yêu thương, vẫn phải hy vọng. Không ai biết khi nào thì ánh sáng sẽ tới. Không ai biết ánh sáng tới bằng cách nào. Nhưng chúng ta biết khi nhìn thấy nó.
 
Tôi ngồi nhớ Phật
người đàn ông khổ hạnh
đã khóc nhiều ngày trên núi
tuyết trắng lồng lộng
chàng băng qua rừng sâu
qua vách đá
băng qua những cái chết
u mê hun hút
trần gian
đá dựng
Chàng lội qua sông
bên kia là những đám lửa
 
Người làm thơ sáng tạo để sống cùng ngôn ngữ, chứ không phải để kiểm soát chúng, hay sử dụng chúng như phương tiện. Thơ nhân chứng hôm nay không phải chỉ là sự tố cáo mà còn là sự ghi chép lại, làm cân bằng một lịch sử hỗn loạn bị bôi xoá, không phải để chờ ngày phán xét cuối cùng, mà để độc giả phán xét trên từng trang giấy.
 
Một người đọc thực sự của thơ bao giờ cũng là người lắng nghe các chữ. Trong phép đọc nhanh, người đọc không lắng nghe, họ chỉ dự đoán nghĩa, như khi ta đọc một tường trình nghiên cứu, một bài báo. Đọc thơ bao giờ cũng là đọc chậm, vì người đọc lắng nghe bằng tai nhiều hơn nhìn bằng mắt. Thơ hiện nay ngày càng nghiêng về huynh hướng thứ hai, tính âm nhạc bị ruồng bỏ, và đó là điều đáng tiếc. Thái Hạo cũng không tránh được điều ấy, mặc dù trong nhiều bài, nhịp điệu của câu thơ của anh vẫn hấp dẫn tôi.
 
Ngồi lõm một vùng đêm
Ếch kêu vỡ giọng
Gọi mưa
Ve rũ xác tìm sương
Trên lá khô giòn rụm
Ta đun trà cho duỗi những búp nâu
Xanh lại lòng chén
Rạn men
Tiếng em như mưa giọt trên lá
Rửa bụi ngày
Xanh mướt bờ chiêm bao
 
Tất cả các câu đều mới, trừ câu cuối. Bài thơ có giọng tình tự, đằm thắm. Tôi cũng muốn thấy nhiều hơn trong thơ anh những câu chuyện về tuổi ấu thơ, về tình yêu, ngôi nhà, chuyện riêng tư, hoài niệm. Tôi yêu mến kích thước con người ở các nhà thơ trữ tình cũng như yêu mến kích thước xã hội ở họ, và sự kết hợp giữa hai tiếng nói là một kết hợp khó khăn, nhiều khi rất khó khăn. Tôi muốn được nhìn thấy nhiều hơn vẻ đẹp huyền bí, tính bất định, niềm vui của sự mất thăng bằng trong thơ anh.
 
Những linh hồn cùng tôi thổi một cuồng phong
cho da thịt lành lại
cho vỡ nát ngục tù
đập tan những ngai vàng
dành lại những lâu đài lãnh chúa
cho em bé làm trường
cho thiên chúa phục sinh
cho thần tự do cầm đuốc trong lòng Hà Nội
một Hà Nội tôi đã gặp em
trong những câu hát phố cổ
 
Tâm hồn hôm nay tìm thấy trong thơ ấy khuôn mặt của mình, những lo âu, thương xót. Như một người đọc, tôi cảm thấy tin vào tiếng nói ấy, muốn đi theo cùng anh trong những đổ vỡ ấy, nguyền rủa, trong những hy vọng ấy, tự tin và dịu dàng, ở Hà Nội, mặc dù không phải không có lúc cực đoan, hay, và, im lặng. Thơ hiện nay, tôi nghĩ, cần nhiều hơn nữa những tiếng nói như vậy. Yếu tố hài hước và châm biếm ở anh cũng khá uyển chuyển. Anh giữ được thăng bằng khôn ngoan giữa việc tiết kiệm chữ và phóng túng rời rạc, những mối liên kết ngắt đoạn, đặc trưng của thơ đương đại. Đây là lúc mà nhà thơ chúng ta cần nói lớn lên, ca ngợi lòng dũng cảm, ca ngợi sự cam kết, chống lại thói ích kỷ. Thơ cần trực tiếp, biểu hiện các ý tưởng về đời sống, phát hiện những nhầm lẫn của con người, tội ác của họ. Một số nhà thơ hôm nay bắt đầu dành được độc giả vì sau một giai đoạn tìm đường, thậm chí phá phách, họ tìm thấy các mối quan hệ cộng đồng, thước đo dành cho cái mới.
 
Những nổi loạn chưa trưởng thành sẽ không đóng góp nhiều cho công việc của thơ ca: đập vỡ cái cũ, các khuôn phép của giới thống trị. Nhà thơ Canada Nicole Brossard nhấn mạnh đến sự gặp gỡ của cái tôi và cái ta, như những giây phút đặc biệt, hiếm hoi, trong thơ chính trị đương thời. Trong giây phút ấy, giấc mơ trong mỗi người tìm lại được những giá trị tốt đẹp của cộng đồng. Thơ là hình thức tinh hoa bậc nhất của một ngôn ngữ, vận động trên những quy ước. Dựa trên những quy ước ấy, nhà thơ mô tả trạng thái tinh thần và tâm lý năng động nhất, tinh tế nhất của dân tộc mình. Những bài thơ hay tăng cường sự hiểu biết xã hội, văn hóa, mở rộng cánh cửa cho tâm trí. Vì thế, đối với tôi, mỗi bài thơ phải mở được một cánh cửa, chỉ ra được một thay đổi. Sự mô tả trong thơ phải cô độc, đầy năng lượng, vượt qua lối nói trừu tượng dễ dãi, xoay quanh các hình ảnh, dẫn tới gợi ý. Trong một số bài thơ, Thái Hạo đạt được, hoặc gần như đạt được, một ngôn ngữ như vậy.
 
Khi một kẻ nói yêu
ghét
đó là lẽ thường
là đạo của tự nhiên
anh ta chỉ đang làm người -
một người bình thường
nhưng ở đất nước này
bạn bè tôi không dám nói điều ấy
nỗi sợ hãi của họ là nỗi sợ làm người
một giống dân lấy sự hèn hạ làm khôn ngoan
chúng ta bị đày ra khỏi ngôi nhà của mình
và đi lang thang như những con chuột
trên nghĩa địa
trăng mờ
ta sợ sự khôn ngoan của các người
 
Xã hội ngày càng hung hãn. Càng hung hãn càng hoảng loạn, càng hoảng loạn càng tàn phá. Thực ra xã hội mấy mươi năm nay bao giờ cũng hoảng loạn. Trước tình cảnh ấy, thơ là tự do tư tưởng. Thơ đứng về phía những người bị áp bức, đứng về phía những người không có vũ khí trong tay, về phía một thiên nhiên đang bị phá hủy, một nền văn hóa bị bôi xóa, đứng về phía không có tiếng nói.
Thơ là tiếng nói ấy của họ.
Người đọc chờ nghe tiếng nói của nhà thơ, giúp cho họ nhận thức mình và người khác rõ hơn, tìm đến nhau, để một giây phút tạm bợ được soi sáng, một tồn tại cá nhân trở thành có ý nghĩa lớn hơn cá nhân ấy, để khoảnh khắc trần gian của chúng ta được thực sống mà nhớ lại.
 
Nguyễn Đức Tùng
(Đọc Thơ 37)

READ MORE - THÁI HẠO, TIẾNG NÓI MỚI, VANG RỀN - Nguyễn Đức Tùng