Thực
tập Thực tế
TÌM
HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGUYÊN AN
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CỦA TÔI – TIỂU THUYẾT THÀNH
CÔNG
CỦA NGUYỄN NGUYÊN AN
Nguyễn
Thị Tú Hằng
Văn
k32
Đại
học Khoa Học Huế
Nguyễn
Nguyên An tên thật là Nguyễn Văn Vinh sinh ngày:01-01-1952,
ông sinh ra tại Nam Giao thành phố Huế. Những truyện ngắn
của ông in rải rác đó đây ở các báo, tạp chí trung
ương và địa phương từ những năm 90.
Trường
đại học của tôi
là những trang viết đầy sức hấp dẫn, giúp người đọc
bất giác hiểu rằng trong cuộc sống bộn bề mâu thuẫn
giữa hai bờ chân – ngụy, thiện-ác, yêu thương-giả
trá… vẫn nổi lên tình người trong veo.
Trường
đại học của tôi là
cuốn sách thứ tư của Nguyễn Nguyên An được xuất bản
vào năm 2007 (Nxb Công an nhân dân). Tác phẩm đánh dấu
mốc quan trọng từ cây bút truyện ngắn sang tiểu thuyết
của nhà văn, đồng thời khẳng định tài năng của ông.
Trường đại học
của tôi đụng
chạm ào một đề tài khá hóc búa: tù tội và người
quản lý giáo dục kẻ phạm tội. Có thể tóm tắt cuốn
tiểu thuyết ngót 300 trang như sau: Nô trong một lần say
rượu, bị kích động đã chém một người bị thương
nặng vào lưng. Sau bốn năm trốn lệnh truy nã chui lũi
khắp nơi, Nô bị bắt khi đang làm việc trong một xưởng
cơ khí ở Đà Nẵng, bị dẫn độ ra Huế - quê hương
của Nô, bị tòa kết tội ba năm tù giam. Qua các trại
giam, Nô bao lo lắng hoang mang, thất vọng… cùng với hi
vọng và chất thiện còn âm ỉ trong lòng, anh đã vật vã
đấu tranh tư tưởng dữ dội, cuối cùng đứng lên cật
lực lao động cải tạo trong trại giam.Trong qua trình đó,
dưới sự tận tình kèm cặp nghiêm khắc nhưng đấy bao
dung của những “thầy giáo bất đắc dĩ” – cảnh sát
trại giam, Nô đã “trở dạ, khai sinh một nhân cách
mới”, đước đặc xá, trở về với gia đình, với
cộng đồng và thành đạt trong việc làm ăn với vai trò
một chủ xưởng nhỏ toàn những người trước đây bị
tù tội. Họ hàm ơn Nô, và đều công nhận nơi ấy là
“trường đại học” của họ.
Một
cốt truyện đơn giản và có hậu như vậy, rất dễ sa
vào công thức, khô khan giào điều. Song Nguyên Nguyên An
với độ chín của một cây bút, bằng thủ pháp kể
chuyện ở ngôi thứ ba “Tôi”, ông đã dẫn người đọc
từ đầu đến cuối không bị hẫng hụt, thất vọng. Sự
hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết không nằm ở chỗ những
tình tiết gay cấn giật mà là ở sự chân thực, hồn
nhiên pha chút vụng dại nây thơ, rất sống động. Cách
viết của Nguyên Nguyên An, chúng ta gọi là truyền thống
mới: đó là đồng hiện và liên hiện. Không có một sự
kiện nào xuất hiện đơn lẽ mà theo nó, vài sự kiện
khác đã có hoặc manh nha sắp có, lung linh, có hình có
bóng trước mắt người đọc. Nghĩ về một người hay
chình mình đi liền với một người khác, một chuyện
khác liên quan hoặc giây dợ giềng mối với người đó
chuyện đó. Đồng hiện là bút phát chủ yếu của Nguyên
Nguyên An. Đứng ở hiện tại, ông quay về quá khứ và
lần lượt ôn từng sự kiện, từng kỷ niệm. Ngôi thứ
nhất là bóng dáng của tác giả. Nhân vật tôi đóng vai
người kể chuyện không ngần ngại thổ lộ nỗi đời,
nỗi mình trên trang viết. Có lúc nổi đam mê, có lúc
vụng về, dại ngộ của một chang trai mới chớm vào yêu
“chúng tôi tan trong nhau, tan trong cơn chếnh choáng, rạo
rực tuyệt vời. Tôi nhận lấy thơ ngây sau nữa lần
nàng trao tay vụng dại” (Người
cũ-Người đi săn hoàng hôn),
để rồi trong hành trình dấn thân ấy, ông tiếp nhận
những chuỗi bất hạnh. Bài học làm người từ những
thất bại cá nhân, từ đỗ vỡ trong hôn nhân giúp ông
đứng dậy, vượt qua hoàn cảnh để làm người “Tôi
chẳng cần đổi cái nghèo tôi đang gánh chịu. Tôi chỉ
muốn tập làm người” bởi vì “tay trắng không thể
trắng thêm” dù ông biết rằng “đời chỉ là cuộc
chơi… cuộc chơi trong cõi phù du này thôi” (Bớt
son-Người đi săn hoàng hôn).
Đó là khẳ năng sinh tồn của bất cứ ai nếu họ còn
muốn làm người tốt. Ngòi bút của ông thường toát lên
mơ ước một cách chân thật, giản dị mà tê buốt, đằm
sâu. Cái tình của tác giả trải ra trên trang viết bằng
giọng nhẹ nhàng thủ thỉ tâm tình, ít hằn học quát
tháo. Nếu có, thì đằng sau vẫn lòng tốt nhẫn nhục,
cam chịu thứ tha, bởi đời còn nhiều việc cấp bách
hơn cần báo động.
Tác
giả dành khá nhiều trang nói về gia đình và hoàn cảnh
sinh sông của những người trong gia đinh nhân vật
chính-nơi từ đó anh ta anh ta lớn lên và phạm tội. “Ba
mẹ bỏ nhau khi tôi lên tám, chị gái lên mười, hai em
còn quá nhỏ. Ba chị em ở lại với ba, còn mẹ đưa út
mới mười mấy tháng tuổi. Mấy tháng sau một người
bạn lái xe ghé nhà nói với ba: Tao thây con mi lem luốc bò
dưới đất ăn cơm với chó… Mi vô đem nó ra kẻo tội.
Ba tôi tức tốc nhảy tàu vô Hội An. Mẹ ham chơi đua đòi
và không chịu đước cực khổ, chẳng đoái hoài gì đến
con cái. Trước đó ba đã quỳ lạy mẹ trong hành lang tòa
án: Đừng bỏ anh, tội các con. Mẹ nói: Anh buông tha cho
tôi với. Mệ Quy thấy ba đang quỳ, an ủi: thôi về lo
làm ăn rồi cũng lấy được vợ. Mắt mẹ long lên: chó
mà lấy… Bà nội chửi mẹ: Đồ đàn bà đoản hậy,
chỉ một đứa con nuôi không nổi!... Ông nội đối với
cháu không cân phân, con chú thì yêu chiều, con ba là chúng
tôi làm cái gì sai ông đánh đập, ngày ngày cứ đợi ba
đi làm ló mặt về là chửi. Ba nuốt hết những lời cay
đắng, còng lưng chịu đựng, rểu rảo khắp nơi chụp
ảnh dạo kiếm tiền nuôi bốn “con tàu há mồm”. Chiều
tối ba về lủng lẳng trên chiếc ghi đông xe đạp một
gói cá nục hay nữa ký thịt mỡ; nghe ông nội chửi:”
Cha cô bà đẻ con không dạy”, điên tiết ba lôi chúng
tôi ra đánh tiếp. Chúng tôi không có mẹ, luôn bị đói
khổ chửi bới đòn roi đên ù lỳ. Tôi thường bỏ học,
cầm đâu tụi bạn cùng lứa lang thang, ngoài đường
ngoài công viên, mười tuổi đã biết ăn hiếp, trấn lột
bạn; mười ba tuổi học lớp tám đã nổi tiếng là “đầu
gấu” ở sân trường. Thăng em út ốm yếu bụng ỏng da
chì, xổ ra đúng một rổ 39 con giun đũa. Xổ xong, nó cứ
ngơ ngơ ngẩn ngẩn, ngồi đâu là ngồi đù một cục. Dù
vậy, nó vẫn lớn lên như cây cỏ. Nó đụng đến việc
gì là hỏng việc ây, rửa ly bể ly, rửa chén bề chén.
Nó thường lang thang ngoài công viên, các qúan cà phê; bị
tụi bụi đời đánh vác cái mặt máu sưng vều về nhà.
Đêm nào nó cũng đi mười một mười hai giờ mới về
nhà, bị ba phạt có, đánh có, không cho ăn cơm, trói,
xính, đủ cả… nhưng nếu hở ra một chút là nó chuồn
liền. Rồi dì Hạnh lấy ba khi di đã băm chín tuổi, cái
tuổi mà thời gian đã gọt dũa đến nguội lạnh những
háo hức khát khao của người phụ nữ, nhưng dì-mẹ cám
cảnh gà trống nuôi con của ba, cảnh chúng tôi đầu xanh
không có bàn tay chăm sóc của người mẹ. Có lần hai
người mẹ của chúng tôi gặp nhau, một bên là nhà giáo
chịu thương chịu khó, một bên là người đàn bà chơi
bời hoang toàng, trang sức màu mè, ăn nói lấc cấc uống
rượu hút thuốc liên miên, đến nỗi không nhận ra mặt
tôi nữa…”
Các
nhân vật mỗi người một nét điển hình với dấu ấn
không thể lẫn đã được ngòi bút Nguyễn Nguyên An vẽ
nên khá rõ, đạt độ chân thực sinh động một cách bất
ngờ. Đặc biệt là dì Hạnh, người mẹ kế. Khi mới về
nhà cha con Nô, Hạnh gây cho mọi người một cảm giác
hơi khó chịu: người cao to, đi đứng hậm hụi nhưng ăn
mặc lại chải chuốt, làm đẹp bằng kính trắng, lắc,
nhẫn, dây chuyền… Nhưng “phụ tùng” ấy không giúp
cho Hạnh bớt thô, trái lại làm giảm phần trí thức của
một cô giáo. Nhưng rồi sau đó, Hạnh đã bán dần cho
đến hết để lo cho gia đình và thăm nuôi Nô với tình
cảm không khác chi Nô do mình rứt ruột đẻ ra. Sau mười
mấy năm, Hạnh có từ gia đình Nô là vóc dánh ngày càng
gầy gò, tóc tai ngày càng bạc vì phải quần quật việc
nhà việc trường; đêm về lại bận bịu với giáo án
với các em Nô. Trong thâm tâm Nô tự hỏi: sao mẹ Hạnh
cam tâm là vợ ba, làm mẹ chúng tôi cho khổ vậy? Có phải
đó là đức tính nhân hậu, đảm đang của một người
phụ nữ Huế xưa? Nô thấy vô cùng có lỗi với mẹ
Hạnh vì đôi ba lần trách cứ mẹ đưa lên trại đồ
thăm nuôi ít, rồi lại hối hận tự xủ vả mình hư
hỏng, đòi hỏi gia đình này nọ. Biết làm sao xin lỗi
mẹ Hạnh đây? Nô chỉ biết nguyện cầu trời đất phù
hộ cho mẹ Hạnh và tha thứ tự mình sau này không làm
điều gì để mẹ và gia đình phiền lòng nữa…
Toàn
bộ cuốn tiểu thuyết, ở khía cạnh này hoặc góc độ
khác đều là những mãnh đời, những tấm chân dung nhìn
nghiêng của tác giả. Và một điều hết sức đặc biệt
là không chỉ với tác phẩm này mà ở mấy tập truyện
ngắn của Nguyễn Nguyên An, như Người
đi săn hoàng hôn, Ngọn đèn vẫn tỏ
ta bắt gặp bóng dáng người đàn bà đã thành ám ảnh,
lúc ẩn lúc hiện. Và hình như là người đàn bà ấy là
kể phụ tình, quên đi lời nguyện ước trăm năm để
đến một chốn giàu sang, đô hội nào đó, mặc trong căn
nhà xiêu vẹo với bốn đứa con thơ dại đang sống trong
tinh yêu khắc khổ của một người bố bị tình phụ. Và
lạ thay, ở họ không hề có tiếng trách móc, dẫu có
lúc không tránh khỏi xót xa. Họ có lòng tốt “chi sơ”
của bản chất người - một phép mầu huyền nhiệm để
thương yêu, tồn tại. Hình tượng người đàn bày ấy
chính là Yên - mẹ Nô, “Vợ tôi” trong truyện ngắn Chờ
chút nằm trong tập
truyện Người đi
săn hoàng hôn, là
Miên trong truyện Đất
sau mưa được im
trong cuốn Ngọn
đèn vẫn tỏ. Phải
chăng chi tiết này cứ lặp đi lặp lại chính là sự ám
ảnh không nguôi trong tâm trí Nguyễn Nguyên An, khi người
vợ yêu dấu đả nỡ bỏ ông và các còn theo người khác
để chạy trốn cuộc sống khó ban đầu. Tôi còn nhớ
trong một cuộc nói chuyện, hoa hậu Nguyên Thị Huyền đã
giới thiệu bài viết về sự “cô đơn” đã làm tôi
rất tâm đắc, trong đó có đoạn: “Cô đơn là quê
hương của thiên tài, những bậc thiên tài thường hay
sống trong âm thầm, lặng lẽ để khám phá, sáng tạo
nhưng cũng vì không tìm được đối tượng có cùng nhận
thức để chia sẽ và cảm thông. Nhưng khoảng cách khác
biệt ấy chỉ thể hiện ở lĩnh vực tài năng nào đó
mà thôi…”. Vậy có lẽ nhà văn đã sống những ngày
trong khổ đau và cô đơn vì bị phụ bạc nên đã cho ra
đời những đứa con tinh thần của mình cũng như vậy?
Về
các nhân vật công an, cảnh sát trong tác phẩm, có lẽ là
điều người đọc quan tâm nhất. Thượng ta Khá, thiếu
úy Hiệu rồi các cảnh sát trại giam, những tự giác
viên trong trại… được Nguyễn Nguyên An miêu tả trung
thực và công bằng, không tô vẽ ngợi ca quá đáng những
gì tốt đẹp của các anh, cũng không “bức xô” hành
động hoặc có những ý nghĩ nặng nề với những gì còn
hạn chế của họ. Làm sao chúng ta lại không chỉ chịu
trận với cái xã hội đầy thói hư tật xấu do những
người tù mang lại, mà còn chịu cảnh năm này qua năm
khác chung thân với núi rừng hiu quạnh, xa rời sự êm ấm
gia đình yêu thương nơi phông phường rực rỡ, tiện
nghi thoải mái.
Trường
đại học của tôi
còn đưa tới một vấn đề không mới những chẳng bao
giờ cũ trong nghệ thuật ngôn từ mà giờ đây không phải
nhà văn nào cũng quan tâm đây đủ và chính xác: vấn đề
sử dụng thổ âm địa phương trong văn học.
Sử
dụng ngôn ngữ địa phương là sở trường của Nguyễn
Nguyên An, hầu như trên mỗi trang văn cảu ông người đọc
đều bắt gặp một chất giọng, một thứ “chất liệu”
văn chương rất đỗi gần gũi, nhiều lúc gần gũi, giản
dị đến gí dỏm, hồn nhiên.
Trong
tiểu thuyết của mình ông đã khéo lựa chọn (chứ không
mô tê răng rứa…) để bổ sung và đặc tả tính cách
con người và sự việc chỉ ở vùng đất bối cảnh -
Huế mới có: “ngồi dù một cục”, “lớn sượng”,
“chịu đèn nhau” (yêu nhau), “mừng quớ ông điếu”,
“thôi đừng buồn nữa anh Nhã. Đã vậy cố chịu cho
qua anh hèo”(T49), “Nô đừng lo. Anh tự xoay xở được
mà. Tháng ni nỏ ai bới anh chúng sống nhăn đó sao, chết
chóc chi mà sợ. Nô có thì bớt anh chút ít, không thì
đành nhịn, chớ biết làm sao!”(T125), “Ừ. Sau này tao
bận không đi nữa. Mi cũng biết rồi, lên đó gần ba
mươi cây số chớ ít sao, rồi phải chờ cả buổi mới
thăn gặp được. Mi thấy tao công việc cả đống chưa
làm xong đầy nì”(T222).
Trường
đại học của tôi
là tấm gương phản chiếu chân thực nhất cuộc sống
đời thương. Là những kinh nghiệm sống đáng quý của
tác giả đã trãi qua, qua bao cuộc bể dâu trước tình
đời, tình người. Dù cho cuộc đời có khắc nghiệt tới
đâu, dù cho lòng người có đa đoan, bắt ta hứng chịu
bao nhiêu đọa đày thân xác và tinh thần thì ta vẫn
không thể gục ngã. Và là lời nhắc nhủ của tác giả
đến những người lỡ đánh mất lương tâm của mình
thì hãy quay về phục thiện, hãy hướng về cái vinh hằng
đề lấy lại cuộc sống tươi đẹp cho mình, cho người
thân và xã hội.
Thành
công của tác phẩm là đáng giá, là tiềm ẩn cho những
thành công sắp tới của nhà văn Nguyễn Nguyên An. Đúng
như nhà văn Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không
phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trắng lừa
dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia
thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Đó là
tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao nhưng cũng chính là
tuyên ngôn cho những ai cầm bút để tạo nên những tuyệt
tác văn học sáng mãi như những vì sao tinh tú trên bầy
trời văn nghệ. Tất cả đều hướng về con người và
cuộc sống cùng những ước mơ và hạnh phúc vĩnh hằng.
Những
tác phẩm của Nguyễn Nguyên An tham gia vào nền văn học
Việt Nam như dòng sông chảy mãi không bao giờ cạn. Năm
tháng sẽ qua đi cùng bao biến đổi thăng trầm, song những
trang biết đầy tính nhân văn của ông sẽ mãi rợp bóng
văn đàn, che mát con người suốt trang viết đầy tính
nhân văn của ông sẽ mãi rợp bóng văn đàn, che mát con
người suốt bao năm tháng, đó là một tình cảm thiết
tha đầy nhân ái như những lời nhắn nhủ từ trái tim
không bao giờ ngừng.
Huế,
tháng 7 năm 2011
N.T.T.H
01674566848