Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, June 11, 2012

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI – TIỂU THUYẾT THÀNH CÔNG CỦA NGUYỄN NGUYÊN AN - Nguyễn Thị Tú Hằng


Thực tập Thực tế

TÌM HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN NGUYÊN AN


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỦA TÔI – TIỂU THUYẾT THÀNH
CÔNG CỦA NGUYỄN NGUYÊN AN

Nguyễn Thị Tú Hằng
Văn k32
Đại học Khoa Học Huế


Nguyễn Nguyên An tên thật là Nguyễn Văn Vinh sinh ngày:01-01-1952, ông sinh ra tại Nam Giao thành phố Huế. Những truyện ngắn của ông in rải rác đó đây ở các báo, tạp chí trung ương và địa phương từ những năm 90.
Trường đại học của tôi là những trang viết đầy sức hấp dẫn, giúp người đọc bất giác hiểu rằng trong cuộc sống bộn bề mâu thuẫn giữa hai bờ chân – ngụy, thiện-ác, yêu thương-giả trá… vẫn nổi lên tình người trong veo.
Trường đại học của tôi là cuốn sách thứ tư của Nguyễn Nguyên An được xuất bản vào năm 2007 (Nxb Công an nhân dân). Tác phẩm đánh dấu mốc quan trọng từ cây bút truyện ngắn sang tiểu thuyết của nhà văn, đồng thời khẳng định tài năng của ông. Trường đại học của tôi đụng chạm ào một đề tài khá hóc búa: tù tội và người quản lý giáo dục kẻ phạm tội. Có thể tóm tắt cuốn tiểu thuyết ngót 300 trang như sau: Nô trong một lần say rượu, bị kích động đã chém một người bị thương nặng vào lưng. Sau bốn năm trốn lệnh truy nã chui lũi khắp nơi, Nô bị bắt khi đang làm việc trong một xưởng cơ khí ở Đà Nẵng, bị dẫn độ ra Huế - quê hương của Nô, bị tòa kết tội ba năm tù giam. Qua các trại giam, Nô bao lo lắng hoang mang, thất vọng… cùng với hi vọng và chất thiện còn âm ỉ trong lòng, anh đã vật vã đấu tranh tư tưởng dữ dội, cuối cùng đứng lên cật lực lao động cải tạo trong trại giam.Trong qua trình đó, dưới sự tận tình kèm cặp nghiêm khắc nhưng đấy bao dung của những “thầy giáo bất đắc dĩ” – cảnh sát trại giam, Nô đã “trở dạ, khai sinh một nhân cách mới”, đước đặc xá, trở về với gia đình, với cộng đồng và thành đạt trong việc làm ăn với vai trò một chủ xưởng nhỏ toàn những người trước đây bị tù tội. Họ hàm ơn Nô, và đều công nhận nơi ấy là “trường đại học” của họ.

Một cốt truyện đơn giản và có hậu như vậy, rất dễ sa vào công thức, khô khan giào điều. Song Nguyên Nguyên An với độ chín của một cây bút, bằng thủ pháp kể chuyện ở ngôi thứ ba “Tôi”, ông đã dẫn người đọc từ đầu đến cuối không bị hẫng hụt, thất vọng. Sự hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết không nằm ở chỗ những tình tiết gay cấn giật mà là ở sự chân thực, hồn nhiên pha chút vụng dại nây thơ, rất sống động. Cách viết của Nguyên Nguyên An, chúng ta gọi là truyền thống mới: đó là đồng hiện và liên hiện. Không có một sự kiện nào xuất hiện đơn lẽ mà theo nó, vài sự kiện khác đã có hoặc manh nha sắp có, lung linh, có hình có bóng trước mắt người đọc. Nghĩ về một người hay chình mình đi liền với một người khác, một chuyện khác liên quan hoặc giây dợ giềng mối với người đó chuyện đó. Đồng hiện là bút phát chủ yếu của Nguyên Nguyên An. Đứng ở hiện tại, ông quay về quá khứ và lần lượt ôn từng sự kiện, từng kỷ niệm. Ngôi thứ nhất là bóng dáng của tác giả. Nhân vật tôi đóng vai người kể chuyện không ngần ngại thổ lộ nỗi đời, nỗi mình trên trang viết. Có lúc nổi đam mê, có lúc vụng về, dại ngộ của một chang trai mới chớm vào yêu “chúng tôi tan trong nhau, tan trong cơn chếnh choáng, rạo rực tuyệt vời. Tôi nhận lấy thơ ngây sau nữa lần nàng trao tay vụng dại” (Người cũ-Người đi săn hoàng hôn), để rồi trong hành trình dấn thân ấy, ông tiếp nhận những chuỗi bất hạnh. Bài học làm người từ những thất bại cá nhân, từ đỗ vỡ trong hôn nhân giúp ông đứng dậy, vượt qua hoàn cảnh để làm người “Tôi chẳng cần đổi cái nghèo tôi đang gánh chịu. Tôi chỉ muốn tập làm người” bởi vì “tay trắng không thể trắng thêm” dù ông biết rằng “đời chỉ là cuộc chơi… cuộc chơi trong cõi phù du này thôi” (Bớt son-Người đi săn hoàng hôn). Đó là khẳ năng sinh tồn của bất cứ ai nếu họ còn muốn làm người tốt. Ngòi bút của ông thường toát lên mơ ước một cách chân thật, giản dị mà tê buốt, đằm sâu. Cái tình của tác giả trải ra trên trang viết bằng giọng nhẹ nhàng thủ thỉ tâm tình, ít hằn học quát tháo. Nếu có, thì đằng sau vẫn lòng tốt nhẫn nhục, cam chịu thứ tha, bởi đời còn nhiều việc cấp bách hơn cần báo động.
Tác giả dành khá nhiều trang nói về gia đình và hoàn cảnh sinh sông của những người trong gia đinh nhân vật chính-nơi từ đó anh ta anh ta lớn lên và phạm tội. “Ba mẹ bỏ nhau khi tôi lên tám, chị gái lên mười, hai em còn quá nhỏ. Ba chị em ở lại với ba, còn mẹ đưa út mới mười mấy tháng tuổi. Mấy tháng sau một người bạn lái xe ghé nhà nói với ba: Tao thây con mi lem luốc bò dưới đất ăn cơm với chó… Mi vô đem nó ra kẻo tội. Ba tôi tức tốc nhảy tàu vô Hội An. Mẹ ham chơi đua đòi và không chịu đước cực khổ, chẳng đoái hoài gì đến con cái. Trước đó ba đã quỳ lạy mẹ trong hành lang tòa án: Đừng bỏ anh, tội các con. Mẹ nói: Anh buông tha cho tôi với. Mệ Quy thấy ba đang quỳ, an ủi: thôi về lo làm ăn rồi cũng lấy được vợ. Mắt mẹ long lên: chó mà lấy… Bà nội chửi mẹ: Đồ đàn bà đoản hậy, chỉ một đứa con nuôi không nổi!... Ông nội đối với cháu không cân phân, con chú thì yêu chiều, con ba là chúng tôi làm cái gì sai ông đánh đập, ngày ngày cứ đợi ba đi làm ló mặt về là chửi. Ba nuốt hết những lời cay đắng, còng lưng chịu đựng, rểu rảo khắp nơi chụp ảnh dạo kiếm tiền nuôi bốn “con tàu há mồm”. Chiều tối ba về lủng lẳng trên chiếc ghi đông xe đạp một gói cá nục hay nữa ký thịt mỡ; nghe ông nội chửi:” Cha cô bà đẻ con không dạy”, điên tiết ba lôi chúng tôi ra đánh tiếp. Chúng tôi không có mẹ, luôn bị đói khổ chửi bới đòn roi đên ù lỳ. Tôi thường bỏ học, cầm đâu tụi bạn cùng lứa lang thang, ngoài đường ngoài công viên, mười tuổi đã biết ăn hiếp, trấn lột bạn; mười ba tuổi học lớp tám đã nổi tiếng là “đầu gấu” ở sân trường. Thăng em út ốm yếu bụng ỏng da chì, xổ ra đúng một rổ 39 con giun đũa. Xổ xong, nó cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, ngồi đâu là ngồi đù một cục. Dù vậy, nó vẫn lớn lên như cây cỏ. Nó đụng đến việc gì là hỏng việc ây, rửa ly bể ly, rửa chén bề chén. Nó thường lang thang ngoài công viên, các qúan cà phê; bị tụi bụi đời đánh vác cái mặt máu sưng vều về nhà. Đêm nào nó cũng đi mười một mười hai giờ mới về nhà, bị ba phạt có, đánh có, không cho ăn cơm, trói, xính, đủ cả… nhưng nếu hở ra một chút là nó chuồn liền. Rồi dì Hạnh lấy ba khi di đã băm chín tuổi, cái tuổi mà thời gian đã gọt dũa đến nguội lạnh những háo hức khát khao của người phụ nữ, nhưng dì-mẹ cám cảnh gà trống nuôi con của ba, cảnh chúng tôi đầu xanh không có bàn tay chăm sóc của người mẹ. Có lần hai người mẹ của chúng tôi gặp nhau, một bên là nhà giáo chịu thương chịu khó, một bên là người đàn bà chơi bời hoang toàng, trang sức màu mè, ăn nói lấc cấc uống rượu hút thuốc liên miên, đến nỗi không nhận ra mặt tôi nữa…”
Các nhân vật mỗi người một nét điển hình với dấu ấn không thể lẫn đã được ngòi bút Nguyễn Nguyên An vẽ nên khá rõ, đạt độ chân thực sinh động một cách bất ngờ. Đặc biệt là dì Hạnh, người mẹ kế. Khi mới về nhà cha con Nô, Hạnh gây cho mọi người một cảm giác hơi khó chịu: người cao to, đi đứng hậm hụi nhưng ăn mặc lại chải chuốt, làm đẹp bằng kính trắng, lắc, nhẫn, dây chuyền… Nhưng “phụ tùng” ấy không giúp cho Hạnh bớt thô, trái lại làm giảm phần trí thức của một cô giáo. Nhưng rồi sau đó, Hạnh đã bán dần cho đến hết để lo cho gia đình và thăm nuôi Nô với tình cảm không khác chi Nô do mình rứt ruột đẻ ra. Sau mười mấy năm, Hạnh có từ gia đình Nô là vóc dánh ngày càng gầy gò, tóc tai ngày càng bạc vì phải quần quật việc nhà việc trường; đêm về lại bận bịu với giáo án với các em Nô. Trong thâm tâm Nô tự hỏi: sao mẹ Hạnh cam tâm là vợ ba, làm mẹ chúng tôi cho khổ vậy? Có phải đó là đức tính nhân hậu, đảm đang của một người phụ nữ Huế xưa? Nô thấy vô cùng có lỗi với mẹ Hạnh vì đôi ba lần trách cứ mẹ đưa lên trại đồ thăm nuôi ít, rồi lại hối hận tự xủ vả mình hư hỏng, đòi hỏi gia đình này nọ. Biết làm sao xin lỗi mẹ Hạnh đây? Nô chỉ biết nguyện cầu trời đất phù hộ cho mẹ Hạnh và tha thứ tự mình sau này không làm điều gì để mẹ và gia đình phiền lòng nữa…
Toàn bộ cuốn tiểu thuyết, ở khía cạnh này hoặc góc độ khác đều là những mãnh đời, những tấm chân dung nhìn nghiêng của tác giả. Và một điều hết sức đặc biệt là không chỉ với tác phẩm này mà ở mấy tập truyện ngắn của Nguyễn Nguyên An, như Người đi săn hoàng hôn, Ngọn đèn vẫn tỏ ta bắt gặp bóng dáng người đàn bà đã thành ám ảnh, lúc ẩn lúc hiện. Và hình như là người đàn bà ấy là kể phụ tình, quên đi lời nguyện ước trăm năm để đến một chốn giàu sang, đô hội nào đó, mặc trong căn nhà xiêu vẹo với bốn đứa con thơ dại đang sống trong tinh yêu khắc khổ của một người bố bị tình phụ. Và lạ thay, ở họ không hề có tiếng trách móc, dẫu có lúc không tránh khỏi xót xa. Họ có lòng tốt “chi sơ” của bản chất người - một phép mầu huyền nhiệm để thương yêu, tồn tại. Hình tượng người đàn bày ấy chính là Yên - mẹ Nô, “Vợ tôi” trong truyện ngắn Chờ chút nằm trong tập truyện Người đi săn hoàng hôn, là Miên trong truyện Đất sau mưa được im trong cuốn Ngọn đèn vẫn tỏ. Phải chăng chi tiết này cứ lặp đi lặp lại chính là sự ám ảnh không nguôi trong tâm trí Nguyễn Nguyên An, khi người vợ yêu dấu đả nỡ bỏ ông và các còn theo người khác để chạy trốn cuộc sống khó ban đầu. Tôi còn nhớ trong một cuộc nói chuyện, hoa hậu Nguyên Thị Huyền đã giới thiệu bài viết về sự “cô đơn” đã làm tôi rất tâm đắc, trong đó có đoạn: “Cô đơn là quê hương của thiên tài, những bậc thiên tài thường hay sống trong âm thầm, lặng lẽ để khám phá, sáng tạo nhưng cũng vì không tìm được đối tượng có cùng nhận thức để chia sẽ và cảm thông. Nhưng khoảng cách khác biệt ấy chỉ thể hiện ở lĩnh vực tài năng nào đó mà thôi…”. Vậy có lẽ nhà văn đã sống những ngày trong khổ đau và cô đơn vì bị phụ bạc nên đã cho ra đời những đứa con tinh thần của mình cũng như vậy?
Về các nhân vật công an, cảnh sát trong tác phẩm, có lẽ là điều người đọc quan tâm nhất. Thượng ta Khá, thiếu úy Hiệu rồi các cảnh sát trại giam, những tự giác viên trong trại… được Nguyễn Nguyên An miêu tả trung thực và công bằng, không tô vẽ ngợi ca quá đáng những gì tốt đẹp của các anh, cũng không “bức xô” hành động hoặc có những ý nghĩ nặng nề với những gì còn hạn chế của họ. Làm sao chúng ta lại không chỉ chịu trận với cái xã hội đầy thói hư tật xấu do những người tù mang lại, mà còn chịu cảnh năm này qua năm khác chung thân với núi rừng hiu quạnh, xa rời sự êm ấm gia đình yêu thương nơi phông phường rực rỡ, tiện nghi thoải mái.
Trường đại học của tôi còn đưa tới một vấn đề không mới những chẳng bao giờ cũ trong nghệ thuật ngôn từ mà giờ đây không phải nhà văn nào cũng quan tâm đây đủ và chính xác: vấn đề sử dụng thổ âm địa phương trong văn học.
Sử dụng ngôn ngữ địa phương là sở trường của Nguyễn Nguyên An, hầu như trên mỗi trang văn cảu ông người đọc đều bắt gặp một chất giọng, một thứ “chất liệu” văn chương rất đỗi gần gũi, nhiều lúc gần gũi, giản dị đến gí dỏm, hồn nhiên.
Trong tiểu thuyết của mình ông đã khéo lựa chọn (chứ không mô tê răng rứa…) để bổ sung và đặc tả tính cách con người và sự việc chỉ ở vùng đất bối cảnh - Huế mới có: “ngồi dù một cục”, “lớn sượng”, “chịu đèn nhau” (yêu nhau), “mừng quớ ông điếu”, “thôi đừng buồn nữa anh Nhã. Đã vậy cố chịu cho qua anh hèo”(T49), “Nô đừng lo. Anh tự xoay xở được mà. Tháng ni nỏ ai bới anh chúng sống nhăn đó sao, chết chóc chi mà sợ. Nô có thì bớt anh chút ít, không thì đành nhịn, chớ biết làm sao!”(T125), “Ừ. Sau này tao bận không đi nữa. Mi cũng biết rồi, lên đó gần ba mươi cây số chớ ít sao, rồi phải chờ cả buổi mới thăn gặp được. Mi thấy tao công việc cả đống chưa làm xong đầy nì”(T222).
Trường đại học của tôi là tấm gương phản chiếu chân thực nhất cuộc sống đời thương. Là những kinh nghiệm sống đáng quý của tác giả đã trãi qua, qua bao cuộc bể dâu trước tình đời, tình người. Dù cho cuộc đời có khắc nghiệt tới đâu, dù cho lòng người có đa đoan, bắt ta hứng chịu bao nhiêu đọa đày thân xác và tinh thần thì ta vẫn không thể gục ngã. Và là lời nhắc nhủ của tác giả đến những người lỡ đánh mất lương tâm của mình thì hãy quay về phục thiện, hãy hướng về cái vinh hằng đề lấy lại cuộc sống tươi đẹp cho mình, cho người thân và xã hội.
Thành công của tác phẩm là đáng giá, là tiềm ẩn cho những thành công sắp tới của nhà văn Nguyễn Nguyên An. Đúng như nhà văn Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trắng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng). Đó là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao nhưng cũng chính là tuyên ngôn cho những ai cầm bút để tạo nên những tuyệt tác văn học sáng mãi như những vì sao tinh tú trên bầy trời văn nghệ. Tất cả đều hướng về con người và cuộc sống cùng những ước mơ và hạnh phúc vĩnh hằng.
Những tác phẩm của Nguyễn Nguyên An tham gia vào nền văn học Việt Nam như dòng sông chảy mãi không bao giờ cạn. Năm tháng sẽ qua đi cùng bao biến đổi thăng trầm, song những trang biết đầy tính nhân văn của ông sẽ mãi rợp bóng văn đàn, che mát con người suốt trang viết đầy tính nhân văn của ông sẽ mãi rợp bóng văn đàn, che mát con người suốt bao năm tháng, đó là một tình cảm thiết tha đầy nhân ái như những lời nhắn nhủ từ trái tim không bao giờ ngừng.

Huế, tháng 7 năm 2011
N.T.T.H
01674566848

No comments: