Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, November 25, 2011

ĐỖ TƯ NGHĨA - CHÙM THƠ VỀ TÌNH YÊU


 Sinh năm 1947, tại quê  mẹ, Quảng Trị.
Tốt nghiệp Triết học, Đại Học Văn khoa Huế. 
Trước 1975, dạy Triết và tiếng Anh tại Blao.
Sau 1975, dạy tiếng Anh. 
Vợ và 2 con gái đã định cư tại Wesminster, quận Cam, USA từ 1992.  
Hiện sống một mình tại Dalat.






TÁC PHẨM CHÍNH :

* Đã in:

+ Con Đường Tuổi Trẻ ( Daisaku Ikeda . NXB Trẻ, 2005. Dịch).      
+ Cuộc Đời của Luận Sư Rajneesh Chandra (Osho).
NXB Trẻ. 2007. Dịch).

 + Tự Thú ( Lev Tolstoy. NXB Văn Hóa Saigon, 2007. Dịch.)
+ Tìm Lại Nụ Cười ( Philip Martin. NXB VHSG, 2009. Dịch)
+ Kahlil Gibran, Ngọn Lửa Vĩnh Cửu, NXB VHSG,  2009. Dịch).



Chùm Thơ V Tình Yêu

1.
Nếu có một ngày
ta gõ nhầm
một căn nhà kín cửa

Nếu có một ngày
giữa cơn khát tình yêu
ta gõ nhầm một căn nhà kín cửa
hãy mỉm cười
từ biệt ra đi.

Đừng xấu hổ thẹn thùng
khi đem trao mà người chẳng nhận
để trái tim lăn
như quả bóng – trên đường.

Đừng trách tàu rẽ sóng ra khơi
khi ta đến trên bờ quá muộn –
Ôi, có phải người không thể nhận
khi điện thờ
Người đã dựng trong tim ?

Hãy mỉm cười từ biệt ra đi
Đừng oán trách nỗi thờ ơ lạnh giá
đôi mắt thân thương – nhìn ta như kẻ lạ
vì giữa đời
đâu dễ nhận ra nhau !

Và nếu muốn
hãy cứ để tơ lòng vấn vít
hãy ngậm ngùi thương mảnh tình si
và nếu cần
hãy cứ mang hình bóng ấy ra đi
nhưng chớ gõ mãi
một căn nhà kín cửa !

Ôi, có phải
giữa đời lồng lộng
bao tâm hồn đang mở cửa chờ ta
nhưng mải chạy tìm bóng quế hồn ma
ta chẳng biết
nơi kia
có người vẫn đợi ?

Nếu có một ngày
ta gõ nhầm một căn nhà kín cửa
hãy mỉm cười từ biệt ra đi –
Vì có thể
một ngày kia
ở một nơi kia
sẽ có một trái tim
đang mở cửa
đợi ta về .

Dalat.1985.

2.
Trò chơi đuổi bắt

Có một lần
Tôi cùng nàng đến một khu rừng
chơi trò chơi đuổi bắt:
Tôi đi trốn và nàng đi tìm.

Chẳng dám chạy xa
vì sợ nàng sẽ khóc
tôi chỉ trốn rất gần –
bao giờ nàng cũng là người thắng cuộc.

Có một lần
đến lượt nàng đi trốn
chẳng sợ tôi buồn – nàng đã chạy rất xa
lạc lối giữa rừng sâu
chẳng bao giờ tìm thấy nàng được nữa.

Ôi , tôi biết tìm nàng ở đâu
khi nàng đã khuất xa
trong rừng sâu
hun hút
của cuộc đời ?

DALAT 5.X1.1983.

3.
Khi tôi nhìn
một nàng con gái đẹp

Khi tôi nhìn một nàng con gái đẹp
Tôi thấy ngọn thủy triều kiêu hãnh
trào lên nơi khóe mắt
nơi nét môi
nơi gót chân kiêu sa
nơi giọng nói nữ hoàng ...

Khi tôi nhìn một nàng con gái đẹp
tôi thấy những giọt nước mắt
mười năm sau
thấm ướt cuộc đời nàng –
Vì vẻ đẹp sẽ chóng tàn như bông hoa
Vì thời gian là chàng trai phụ bạc
chỉ nâng niu những bông hoa tươi
mà phũ phàng
những bông hoa sắp héo.

Khi tôi nhìn một nàng con gái đẹp
Tôi thấy hạnh phúc đến bên nàng
nhưng khổ đau
cũng theo nàng –  như chiếc bóng.

Hỡi nàng con gái đẹp
những chàng trai có thật yêu em
hay chỉ yêu
vẻ đẹp phù hoa
đã mượn xác thân  em làm quán trọ
giữa một thời xuân sắc ?

Này em
chàng khó thể yêu em
khi em còn sắc đẹp –
càng khó thể yêu em
khi nhan sắc tàn phai.

Hỡi em
hỡi nàng con gái đẹp
nụ hoa hồng bạc mệnh
của trần gian –
Em biết chăng
dù trái tim em thiết tha
em vẫn phải khổ đau
vì khó gặp Tình Yêu
giữa cuộc đời này.

Dalat. 7. XI.1983.

4.
Sẽ có một ngày

Sẽ có một ngày
tôi hát những bài ca
chúc tụng cuộc đời
chúc tụng tình yêu
ngợi ca trần gian xinh đẹp.

Sẽ có một ngày
tôi sẽ quỳ dưới chân cuộc sống
để tạ ơn
những mật ngọt đã chảy xuống
đôi môi tôi
dù chỉ một đôi lần.

Sẽ có một ngày
tôi sẽ xây một thánh  đường
giữa trái tim
giữa trái tim như thành phố
không đèn
nơi ấy
tôi sẽ đặt một bệ thờ
cho tình yêu
cho những  đôi môi
cho những đôi mắt ru hồn
cho những mái tóc
ngàn năm còn đeo đẳng.

Sẽ có một ngày
tôi sẽ cươi vui
mỗi một lần tiễn biệt
mỗi một lần chết đi
mỗi một lần sống lại –
vì cuộc đời vẫn giết chết tôi
và hồi sinh tôi
trong từng khoảnh khắc.

Sẽ có một ngày
sẽ có một ngày trong tương lai
gần hay xa
giữa cuộc đời
hay trong cõi chết.

DALAT. 1983.
Mùa quỳ vàng.
[ Trích từ tập thơ Gởi Tình Yêu, Gởi Cuộc Đời, 1983, chưa in].

ĐỖ TƯ NGHĨA
Nguồn: Bài và ảnh chân dung trích từ vanchuongviet.org

READ MORE - ĐỖ TƯ NGHĨA - CHÙM THƠ VỀ TÌNH YÊU

HÀ THẠCH HÃN - ĐỜI CÔ TÔI


Cứ bị cuốn vào dòng trôi của cuộc sống nơi phương xa, mãi đến một hôm hội ngộ lớp bạn bè ấu thời, ước muốn tìm gặp lại cô giáo cũ trong tôi mới trỗi dậy mạnh mẽ.
Nhưng soi lại ký ức, lục tung hồ sơ, sổ sách liên quan… chúng tôi cũng chỉ biết chung chung quê cô ở Quảng Bình.
Cho đến một ngày thằng bạn giờ đã là bác sĩ bỗng hét toáng lên: “Tìm ra cô Tiu rồi, cô Phan Thị Tiu ở Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình…”.


CHÙM VẢI THỜI ĐÓI NGHÈO

Gần 30 năm qua, mỗi lần chợt nhớ đến cô là hình ảnh chùm vải thiều lại hiện lên trong tâm trí tôi với một câu hỏi đeo đẳng. Giờ đây gặp lại cô, câu hỏi ấy dường như càng thôi thúc hơn: “Tại sao lúc ấy đói kém như thế, tại sao ở Quảng Trị không có vải mà cô lại có được chùm vải để minh họa cho bài học trên lớp?”.

Cô vẫn cười hiền lành: “Nói thật lúc ấy rất khó khăn, khó lắm, nhưng nghĩ mãi: chẳng lẽ học về trái vải mà HS chưa bao giờ thấy vải thì làm sao cảm nhận được. Thế là cô lấy ra vài đồng dành dụm gửi người đi chợ trong Huế mua về để bài giảng thêm sống động”.
Quả là chùm vải hôm ấy đối với lũ trẻ chúng tôi hết sức “trực quan sinh động”, nhờ thế mà những bài giảng của cô luôn có một sức hút kỳ lạ. Không những thế, cô còn dạy chúng tôi nhiều kỹ năng khác, từ may vá, thêu thùa, đơm nút… cho đến làm thơ! Những câu thơ thô vụng ngày nào như Lớp em là lớp 5A. Học hành tấn tới mới là trò ngoan đã nâng bước tâm hồn cho bao lớp bạn bè tôi, giúp họ biết sống đẹp trong và hồn hậu nơi chân trời góc bể.

Ngày ấy nghèo, rất nghèo nhưng cái tình thầy trò luôn thấm đẫm và gần gũi. Sau năm 1975, cha tôi mất, từ miền Nam trở về quê (Quảng Trị), mẹ tôi một nách bốn đứa con thơ trong bối cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn, gia đình tôi dường như túng bấn đến cùng cực.

Tôi một buổi chăn trâu, một buổi đến trường với bộ quần áo tận dụng từ vải bao cát, chiếc cặp táp chỉ đơn sơ là túi lác, vở viết qua một lần phải ngâm nước cơm phơi khô viết lại (thường bị nhòe nhoẹt), rồi mực viết cũng phải “chế biến” từ hạt mồng tơi… Cơm không đủ ăn, các anh em tôi phải thay nhau chăn trâu cho hợp tác xã mà vẫn cứ đói. Đói đến độ phải thường xuyên ăn cháo rau (các loại rau tập tàng ở vườn nhà, một ít khoai và chỉ nhúm gạo), khoai sắn, thậm chí phải ăn cả cám, gốc chuối, gốc đu đủ… thay cơm. Ngày nào chủ nợ cũng rậm rịch và eo éo đòi nợ bên hiên nhà.

Trong tình cảnh ấy, một đêm mẹ tôi ôm tôi vào lòng rưng rức: “Mẹ tiếc là đã không thực hiện được lời hứa với cha con lúc sinh thời. Đến nước này rồi, con phải nghỉ học để đỡ đần thêm với các anh chị, mẹ xót xa lắm…”. Đứa trẻ 9 tuổi chỉ biết gạt nước mắt từ bỏ giấc mơ trở thành kỹ sư, xa bạn bè, thầy cô… nhận lấy con trâu của hợp tác xã – chính thức trở thành mục đồng chuyên nghiệp để có thêm 4 ang lúa (khoảng 17 kg/ang) mỗi vụ.

Nhưng rồi một đêm khi biết chuyện, cô Tiu đã đến tận nhà tôi động viên, thuyết phục mẹ cho tôi trở lại trường. “Nếu không có gạo ăn, cô và giáo viên trong trường sẽ góp vào nuôi em, chị đừng lo…” – cô Tiu tự tin nói. Không đứng vững nổi trước lời thuyết phục tha thiết của cô, mẹ tôi không cầm được nước mắt, đành gật đầu. Riêng tôi vui sướng đến nghẹn ngào vì đã được trở lại trường lớp với thầy cô và bạn bè thân yêu của mình.

Tôi may mắn được học cô Tiu liên tục đến ba năm, từ lớp 3 đến lớp 5. Trong ký ức của mình tôi vẫn nhớ về ngôi trường nhỏ bé – nơi mà nhiều giáo viên, trong đó có cô – được lũ trẻ chúng tôi xem như một người mẹ thứ hai. Cô tỉ mẩn đơm lại từng chiếc nút bị đứt cho đứa này, cẩn thận dặn dò đứa kia nhớ mang áo ấm khi trời trở rét, lo lắng về đến tận nhà HS kèm cặp thêm mỗi khi có ai đó chưa hiểu bài…

Có lần đưa chúng tôi đi thi HS giỏi ở tận thị trấn huyện lỵ, cô trò cơm đùm cơm nắm đi bộ đến 12km, mệt đến rã rời. Biết vậy nên chốc chốc cô lại dừng chân lấy nước cho chúng tôi uống, động viên chúng tôi cố bước lên phía trước… Đêm trước ngày thi, cô trò phải vào nhà dân xin ngủ nhờ. Ba cô trò một giường và khi say giấc, bạn N. còn vô tư quờ tay sờ tí cô như vẫn quen với mẹ (!).


HÒN ĐÁ LĂN HOÀI, KHÔNG ĐÓNG RÊU…

Năm 1994, cô trở về quê sau đúng 20 năm đằng đẵng gắn bó với mảnh đất Quảng Trị. Về lại Hàm Ninh, Quảng Ninh (Quảng Bình) quê hương, cô vẫn tiếp tục đứng trên bục giảng, dù sau đó được cất nhắc lên hiệu phó Trường tiểu học số 1 Hàm Ninh.

“Hòn đá lăn hoài, hòn đá không đóng rêu”. Sau gần 30 năm gặp lại cô, câu ngạn ngữ ấy cứ khiến tôi day dứt, bùi ngùi… Ngày cô rời ngôi trường Hải Tân (Hải Lăng, Quảng Trị), nhiều cán bộ xã và người dân đã tiễn cô trong nước mắt. Người ta không khỏi xúc động vì cô đã để lại trọn tuổi thanh xuân cho mảnh đất này – một sự dâng hiến không chút đòi hỏi, đắn đo – và cả chạnh lòng cho nỗi chiếc bóng của thân phận.

“Hòn đá lăn hoài, hòn đá không đóng rêu”. Ra đi một bóng trở về một bóng. Phải khó khăn lắm tôi mới đặt được câu hỏi với cô về chuyện chồng con, vì vẫn không tin một nhan sắc mặn mà, một tính cách sôi nổi như cô thời trẻ lại phải chịu sự hẩm hiu của số phận. Cô cười mà ánh mắt xa xăm: “Có lẽ cái số cô nó thế…”.


CÓ BAO GIỜ CÔ ÂN HẬN VỚI CON ĐƯỜNG ĐÃ CHỌN?

- Không, cô chưa bao giờ có suy nghĩ ấy, ngay từ ngày đầu nhận quyết định đi B vào Nam. Nếu được lựa chọn lại, cô vẫn chọn nghề giáo…
Khi tôi tìm gặp được cô cũng là lúc cô chuẩn bị nhận quyết định nghỉ hưu. Cũng may, năm 1994 từ Quảng Trị trở về cô còn lận lưng được 9 triệu đồng nhờ tăng gia… nuôi heo miệt mài trong 20 năm ở đây. Số vốn ấy cùng với sự trợ giúp của họ hàng, người thân, cô đã xây được một ngôi nhà nhỏ trên mảnh đất của người anh trai. Phía trong trang thờ, hàng chồng bằng khen, giấy khen cô vẫn còn cất giữ.

Hơn 30 năm đứng trên bục giảng, trong đó có 25 năm là “chiến sĩ thi đua”, rồi nào là bằng khen dạy giỏi, bằng khen về công tác phổ cập giáo dục và cả bằng khen “giỏi việc nước, đảm việc nhà”! Và có lẽ quí giá nhất đối với cô vẫn là tấm Huân chương Kháng chiến hạng 3 do Chủ tịch nước trao tặng năm 1997, được treo trang trọng ở góc tường.

Đó là tất cả gia sản của một đời người dạy học.

Chia tay cô, đêm đã bắt đầu xuống nhanh. Nhìn ngôi nhà hai gian trống trải giữa vùng chiêm trũng mênh mang mà không khỏi ái ngại. Không hiểu cô sẽ sống ra sao với những năm tháng còn lại phải rời phấn trắng bảng đen vốn đã thành nghiệp, trong khi căn bệnh đại tràng 10 năm qua vẫn chưa buông tha cô?

Dẫu biết thời gian không bất biến, dẫu biết cái nghiệp cầm phấn vốn không so đọ thiệt hơn, được mất… nhưng sao vẫn thấy cay cay nơi khóe mắt khi chạnh nghĩ về nỗi quạnh quẽ, đơn côi khủng khiếp của một kiếp người. 

***

- Tháng 10-1974, từ Quảng Bình, cô được điều động vào Quảng Trị giảng dạy ở vùng giải phóng theo chế độ đi B (dân chính). Năm 1975, cô chuyển vào Hải Tân, huyện Hải Lăng, Quảng Trị và dạy một lèo đến 20 năm.
- Sau giải phóng, đời sống người dân nói chung hết sức cơ cực, riêng miền Trung còn cơ cực hơn. Lương giáo viên tiểu học chỉ khoảng 40 đồng/tháng, trong đó có những năm như 1979-1980, giáo viên phải thường xuyên ăn bo bo, bột mì thay cơm. Đó cũng là thời kỳ mà trong khi không ít giáo viên đã phải “nhảy” sang ngành khác thì cô vẫn đều đều ba bữa bo bo đến lớp.
- Hơn 30 năm dạy học đối với cô, dường như chỉ có cho mà không hề nhận lại gì cho mình, nếu có cũng rất ít. Đó là nét đẹp nhân văn cao cả của nghề giáo và cũng là nỗi nghiệt ngã của nghề.

(Tháng 11-2007)
Hà Thạch Hãn
READ MORE - HÀ THẠCH HÃN - ĐỜI CÔ TÔI