Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, September 27, 2016

CHÙM THƠ THỦY ĐIỀN



    Tác giả Thủy Điền


THUYỀN TÌNH KHÔNG BẾN
                                  
Chiều về ta lênh đênh
Trên chiếc thuyền không bến
Lả lướt, theo dòng sông   
Ngắm hoàng hôn thơ mộng

Đôi mái chèo gác võng
Em ngước nhìn trời xa
Thái dương hồng đẹp quá
Ta thả hồn mênh mông

Giữa khoảng trời trống, rộng
Mây nước cuối chân trời
Quyện hòa màu tím gọi
Ánh mắt nàng xinh xinh

Đôi môi cười khép kín
Lóng lánh mái tóc huyền
Con thuyền tình không bến
Chiều hoàng hôn lênh đênh.

                        Thủy Điền
                       25-09-2016 


ĐÊM TRĂNG HỒNG   

Xuyên qua gương em là cô gái đẹp
Áo nửa thân là kiều nữ gợi tình
Đối diện anh là viên ngọc lung linh
Tỏa hương sắc ngạt ngào như hoa bướm

Hãy giang tay, nào người tình lý tưởng
Em ngã người, anh ôm gọn vòng tay
Nâng sam- panh anh nhé, chúng mình say
Nửa men rượu, nửa men tình ngây ngất

Trăng đêm nay sẽ thắp đèn trọn giấc
Ta tha hồ ân ái dưới màng đêm
Ta yêu nhau giữa thời khắc êm đềm
Chiếc áo đỏ ngã nghiêng mơi xó góc.

                                    Thủy Điền     
                                   26-09-2016

READ MORE - CHÙM THƠ THỦY ĐIỀN

CHỊ HOÀI - Truyện ngắn của Ngô Hương Thủy





                       CHỊ HOÀI
                   Truyện ngắn của Ngô Hương Thủy

Tháng chín năm 1977, tôi cầm quyết định của Sở Giáo dục Phú Khánh về giảng dạy ở Trường cấp III An Cư huyện Tuy An. Ông Trưởng phòng tổ chức cười cười bảo: “Cô về đấy tha hồ mà ngắm đầm Ô Loan xinh đẹp và ăn đặc sản sò huyết trứ danh”. Đám sinh viên cùng nhận nhiệm sở nhìn tôi như ghen tị.
Chuyến xe đò ọp ẹp, già nua thả tôi xuống bên vệ đường hoang vắng trên quốc lộ I cách thị xã Tuy Hòa khoảng ba mươi lăm cây số. Chú lơ xe như thấu hiểu sự lo lắng của cô gái lần đầu đi xa, nhiệt tình bày vẻ: “Cô vào đầu kia hỏi bà chủ quán. Huyện Tuy An đây rồi”. Nói xong, chú ta đập thùm thùm vào cửa xe, hét bác tài: “Tới luôn”.
Lếch thếch với cái vali gồm chăn mùng, áo quần, sách vở…tôi thở dốc hỏi bà chủ quán về ngôi trường. Miệng đầy trầu, bà lắc đầu lia lịa trước cái giọng Huế chắc mới nghe lần đầu. Tôi thất vọng ngồi thừ người trên cái ghế đẩu. Bất chợt, một gương mặt trẻ thơ thò ra sau cửa liếp: “Trường Đồi đó bà ngoại ơi!”. Gương mặt tôi giãn ra cùng với một câu đăc sệt Phú Yên từ miệng bà chủ quán “Dzẫy na!”.
Thằng bé trai khoảng mười tuổi nhiệt tình dẫn cho tôi vào con đường đất cách quán khoảng 300 mét. Không những thế, nó còn xách giúp tôi cái túi nhỏ. Tôi nhủ thầm “Số mình hãy còn may!”. Đi khoảng mười phút, tôi hỏi nó: “Còn xa không em?”. Nó chỉ tay: “Kia kìa”.
. Nhìn từ xa đã thấy trên ngọn đồi trọc không cây cối, duy nhất một dãy phòng học đứng chơ vơ trong nắng chiều hiu hắt. Ngôi trường cấp ba đây ư? Cảm tưởng đầu tiên của tôi là sự thất vọng đến ngỡ ngàng. Một ngôi trường hoàn toàn khác với hình dung của cô sinh viên vừa tốt nghiệp Đại học thành phố!
Thằng bé đi nhanh và đứng chờ tôi trên đồi. Con dốc đi lên khấp khểnh đầy đá. Nó đập cửa một căn nhà nhỏ bên tay phải dãy phòng học có treo cái trống ở bên ngoài:
-Bác Thạch ơi! Có ai hỏi nè…
Tiếng lộc cộc trên nền xi măng và cánh cửa mở rộng. Khuôn mặt nhầu nhỉ của một người đàn ông hiện ra. Khi thấy tôi đang thở, những nét nhăn giãn rộng:
-Cô giáo mới về trường a? Cô giáo ngồi nghỉ cho đỡ mệt. Hôm nay chủ nhật, ông Hiệu trưởng về nhà, trường không có ai…
Tôi cám ơn thằng bé bằng một cái vuốt tóc. Người đàn ông rót cho tôi chén nước trà nguội ngắt và giới thiệu:
-Tôi là Thạch, bảo vệ trường kiêm đánh trống. Tôi sẽ đưa cô xuống nhà tập thể của giáo viên bên dưới.
Lại phải kéo lê cái va li xuống chân đồi. Ông Thạch tỏ ý muốn xách giùm nhưng tôi cản lại vì nhận ra bên trái của ông là một cái chân giả. Và âm thanh lộc cộc phát ra từ đây mỗi khi ông di chuyển.
Nhà tập thể nằm dưới đồi phía bên tay trái mà khi đi lên tôi đã sơ ý không nhận ra. Nó gồm ba gian cũ kỹ và tàn tạ như ngôi trường. Ông Thạch đưa tôi vào gian cuối và gọi:- Cô Hoài ơi, cô Hoài…
Ấn tượng đầu tiên của tôi về chị Hoài là một gương mặt tai tái dấu tích của căn bệnh sốt rét kinh niên. Mớ tóc xác xơ như khẳng định thêm điều này, hai cái kẹp ba lá tuột dài trên mái. Không cần ông Thạnh giải thích, chị hiểu ngay và đón tiếp tôi bằng giọng của người miền ngoài:
-Lính mới phải không ? Vào đây, vào đây em…
Một căn phòng nhỏ khoảng hai mươi mét vuông với hai chiếc giường cá nhân song song, ở giữa là cái bàn học sinh chắc giành cho việc soạn bài. Bên trong bức màn con công đã cũ che ngang thấp thoáng mấy cái áo trên móc. Chị đặt cái va li của tôi ở cuối giường:
-Đây là giường cô Nhung dạy Sinh nhưng cô ấy đã chuyển về Nha Trang. Bây giờ nó sẽ là giường của em.
Nhiệt tình của chị làm cho tôi cảm thấy an lòng dù đang ngổn ngang trăm mối. Chị múc nước từ trong chiếc xô sắt cho tôi rửa bụi đường. Sau này tôi mới biết để có một xô nước sạch chúng tôi phải đi xa gần ba trăm mét.
Qua lời chị Hoài, tôi được biết căn phòng đầu tiên là của ông Hiệu trưởng tên Xuân người Phú Yên tập kết ra Bắc từ năm 54, cuối tuần hay về làng ở bên An Ninh; phòng bên cạnh của ông Quyền dạy Toán quê đâu tận trên Tây Bắc. Ông là giáo viên chi viện cho miền Nam. Ông vào đây đem theo một thằng con bảy tuổi, mặt ngơ ngác khờ khạo. Và phòng còn lại là của chúng tôi. Một số giáo viên nam khác đựơc bố trí ở tạm nhà dân, những ngôi nhà tôn hoặc tranh tre nứa lá nép dưới những ngọn đồi trọc xơ xác tiêu điều.
Tối hôm ấy chị Hoài mời tôi ăn cơm với cá nục kho và một đĩa rau lang luộc. Cơm được trộn thêm nắm mì sợi. Chúng tôi ăn tối trong ánh đèn tù mù, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu vang ngoài đồng. Ông Thạch đem xuống cho tôi ba khúc sắn luộc. Nhìn chân ông tập tễnh đi lên ngọn đồi, tôi hỏi nhỏ chị Hoài:
-Ông này là bộ đội phục viên hả chị?
Chị Hoài cười phá lên:- Lính ngụy trăm phần trăm đấy.
Tôi thiếp ngủ trong tiếng hát của chị: “Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu, đàn Ta Lư em cất tiếng vang lừng mừng thắng trận quê em… Tính tính tính tính tang tang tình…”
***
Đời giáo viên giúp tôi hiểu thêm về ngôi trường và đồng nghiệp. Đây là trường cấp ba đầu tiên của huyện được mở sau 1975. Trước đây, học sinh phải vào tận Tuy Hòa. Trường vẻn vẹn bảy lớp chia làm hai ca. Buổi sáng, một lớp 12 loe ngoe hai mươi mấy em và hai lớp 11; chiều có bốn lớp 10. Huyện Tuy An là một vùng bán sơn địa của tỉnh Phú Yên. Học sinh từ các xã An Hòa, An Dân, An Hiệp trở ra; Ngân Sơn, Chí Thạnh vào; La Hai, An Chấn, An Định xuống… Gần thì đi xe đạp, xa phải ở trọ trong các nhà dân, cuối tuần về nhà cơm đùm gạo bới.
Trường nguyên là ủy ban xã của chế độ cũ. Ngoài bốn phòng học, căn nhà liền kề được ngăn ra làm ba với một phần là kho sách, một phần chứa các thiết bị trường học, phần còn lại là phòng nghỉ của giáo viên giữa giờ lên lớp, vừa là phòng hội họp, lại vừa là nơi ở tạm thời của ông Thạch. Dấu tích những viên đạn còn chi chit trên tường. Giáo viên chỉ mười hai mạng chia làm hai tổ tự nhiên và xã hội. Một cô giáo trước tôi đã bỏ trường vì không chịu nổi gian khổ. Chị Hoài là người nữ duy nhất bám trụ từ ngày lập trường.
Chị Hoài người Hà Tĩnh, quê bên dòng sông Ngàn Phố, hết lớp 10 tình nguyện đi Thanh niên xung phong từ sau Tết Mậu Thân. Đất nước thống nhất, về quê thì mẹ đã mất, anh trai có gia đình, chị học tiếp mấy tháng theo chế độ ưu đãi người có công rồi được phân bổ vào Nam. Chị làm Bí thư Đoàn trường và giảng dạy môn Chính trị.
Những năm tháng chiến trường đã tạo cho chị một tính cách mạnh bạo. Nói to, lời lẽ bỗ bã, xốc vác trong công việc. Đã hai mùa hè, chị tình nguyện ở lại giữ trường; xin một đám đất hoang trồng sắn, khoai; dẫn học trò đi lao động luôn vượt chỉ tiêu…
Ông Quyền sống khép kín với căn phòng ít khi mở rộng cửa. Cánh cửa sổ nhỏ xíu làm gian nhà đắm trong thứ ánh sáng lờ mờ. Hai cha con ăn số lương thực tiêu chuẩn ít ỏi mỗi tháng. Thi thoảng chị Hoài lại dúi cho thằng bé củ khoai, mẩu sắn. Thằng bé sợ bố như sợ cọp, không bạn bè, sống lủi thủi nhìn thấy thương.
Nhân vật thứ ba nữa là ông Thạch. Qua chị Hoài, tôi mới biết thời trai trẻ ông là lính Địa phương quân của chế độ cũ. Trường Đồi là nơi trước đây tiểu đội ông đóng quân bảo vệ xã. Khoảng năm 1970, du kích tấn công, ông bị thương cụt một chân. Ủy ban xã dời ra quận Chí Thạnh, ông ở lại giữ cơ sở vật chất. Sau 75, đây trở thành trường cấp III. Những người dân địa phương thích làm ruộng, không ai muốn làm chức phu trường. Ông Thạch nghe nói lại có bà con xa với Hiệu trưởng. Và đó là những nguyện nhân khiến ông được nhận làm hợp đồng tại trường. Ông Thạch không vợ con, ngày trực trống, đêm bảo vệ, ngủ trên cái ghế bố -dấu tích thời còn đi “lính ngụy”- đặt tạm bợ trong kho sách. Thỉnh thoảng mua được miếng “ thịt tiêu chuẩn”, ông kho mặn ăn dài ngày. Ông không xấu nhưng nhìn dáng đi tội nghiệp ấy tôi cứ liên tưởng đến nhân vật Quasimodo trong tiểu thuyết của Victor Hugo . Chị Hoài hay nói “Tay du kích nào đó bắn dở. Gặp tao có khi lão Thạch đã bể gáo”. Có lẽ cái mặc cảm “lính ngụy” khiến ông ít nói trước sự tếu táo ồn ào của chị Hoài. Ông Xuân Hiệu trưởng tương đối dễ chịu; thầy Khiêm dạy Sử Địa, thầy Túy dạy Lý Hóa, thầy Yên dạy Thể dục sống nhờ trong các xóm. Chúng tôi chỉ gặp nhau khi trùng giờ lên lớp, khi dắt học trò đi lao động, khi họp hội đồng trong đêm bên ngọn đèn dầu được vặn bấc lớn, tỏa ra thứ ánh sáng đỏ quạch, khói đen nghi ngút. Cuộc sống đều đặn, nhàn nhạt, lâu lâu lóe lên một điểm sáng phố phường khi được về Nha Trang công tác hoặc học chính trị ở Tuy Hòa. 
Nếu không có chị Hoài, có thể tôi sẽ bỏ nhiệm sở như cô Nhung. Thôn có tên Phú Tân nhưng chẳng Phú cũng chẳng Tân. Trường cách quốc lộ I khoảng tám trăm mét. Đứng trên đỉnh đồi không một bóng cây có thể nhìn thấy những chuyến xe chạy trên đường càng khơi gợi nỗi nhớ nhà. Mùa Nam cồ , những cơn gió cuồn cuộn như lốc xoáy cuốn cát bụi vào phòng học. Và cái đầm Ô Loan với lời ca ngợi của ông Trưởng phòng Tổ chức cũng chắng có chút thơ mộng nào. Nó chỉ đẹp qua ca dao khi ngắm từ con đèo Quán Cau: “ Lẻ loi như cụm núi Sầm. Thản nhiên như mặt nước đầm Ô Loan”. Tôi và chị Hoài đã nắm tay nhau đi dọc theo con đường dẫn xuống đầm. Hai bên bờ, heo được thả từng đàn , thấy người thoải mái giương mắt nhìn. Mùa hạ, những con bọ chét tha hồ cắn nát người tôi. Chị Hoài bảo “tại máu em ngọt”. Chúng tôi cũng chưa hề được nếm con sò huyết nào như lời ông Trưởng phòng Tổ chức.
Nói cho công bằng, ở đây tôi cũng có những niềm vui nho nhỏ. Đó là khi được chị Hoài mượn xe đạp chở ra đập Hải Yến dầm mình trong làn nước mát, khi theo học trò lên An Định mùa làm mía được phụ huynh mời uống nước chè hai ngọt ngào, khi ra Ngân Sơn ăn sắn nước Phường Lụa và hiểu tại sao nhà văn Võ Hồng có những câu văn đẹp về quê hương ông. Thôn Ngân Sơn được bao bọc bởi những rặng tre xanh ngắt. Phải chi trường được dời ra khoảng mươi cây số thì hay biết bao nhiêu!
Chị Hoài có một cuốn sổ tay đã sờn bìa. Cuốn sổ xã nhà tặng buổi lên đường vào Nam chiến đấu được chị ấp iu đặt dưới gối.Trang đầu tiên có vẽ hình đôi chim câu tung cánh bay vào trời xanh. Trong cuốn sổ chị viết những bài thơ hào hùng của Tố Hữu như Ta đi tới, Ba mươi năm đời ta có Đảng, Bài ca mùa Xuân 61…; những bài hát như Cô gái vót chông, Tiếng đàn Ta Lư, Chiếc gậy Trường Sơn…Trong các buổi văn nghệ, hội họp, lao động bao giờ chị cũng khuấy động không khí bằng thứ âm thanh cao vút. Những bài hát giúp tôi nhận ra chị từ xa, những bài hát xua tan thứ không khí ẩm mốc của mùa đông, những bài hát có tác dụng giúp học sinh vượt năng suất…
Ba năm sau hòa bình chưa kịp giúp chị Hoài phục hồi sức lực. Thân hình chị như đài khí tượng thông báo thời tiết khi chuyển mùa. Có những buổi sáng trời nóng nhưng chị run rẩy trong chăn. Có khi đang dạy chị lảo đảo và học trò phải dìu xuống khu tập thể. Thế nhưng ngày mai, chị lại xông xáo, lại đề ra kế hoạch thi đua, lại cất tiếng hát “Cuộc đời vẫn đẹp sao…”
Một điều chắc chắn là chị Hoài không có người yêu. Một năm nhận thưa thớt vài bức thư có nét chữ to cộ của ông anh ở quê. Chị đang ở vào lớp tuổi trẻ đang qua già sắp tới. Tuổi xuân của chị đã trôi trên những cánh rừng đại ngàn Trường Sơn. Có một ông đồng hương đóng quân ở Sông Cầu thi thoảng ghé chơi nhưng thấy hai người chỉ “mày tao chi tớ” như những người bạn đồng phái.Thú vui của chị là nghêu ngao những bài ca hào hùng một thuở thanh niên!
Những đêm khuya nhìn bóng chị Hoài hắt trên tường tôi cảm nhận một nỗi buồn đến nao lòng. Hết soạn bài, chấm bài thì lôi mớ len cũ ra đan cho đứa cháu nhỏ ở xa. Hình như chị cũng chẳng thuận thảo mấy với người chị dâu để háo hức về nhà dịp hè, dịp tết. Có khi nào nỗi buồn cũng là một thứ gia vị cho người ta nhấm nháp?
Khu tập thể không có giếng. Muốn lấy nước sinh hoạt chúng tôi phải đi lên cái giếng của bệnh viện cũ cách đó khoảng ba trăm mét. Để khỏi mất công, chúng tôi thường ôm áo quần lên tắm giặt vào ban đêm và băng qua khu vườn hẹp của ông Hoàn. Ông này góa vợ, có ba đứa con trai lộc ngộc hay cãi nhau ỏm tỏi. Ông Quyền có lần nửa đùa nửa thật định làm mối ông Hoàn cho chị Hoài nhưng chị quay ngoắt: “Có mà hâm. Tôi chưa điên!”. 
Chị Hoài hay mắng tôi với thứ tình “tiểu tư sản” khi thấy tôi vui buồn bên lá thư vừa nhận được của người yêu. Chị ném cho tôi cuốn Ruồi trâu, cuốn Thép đã tôi thế đấy bảo: “Đọc đi, đọc đi. Lãng mạn cho lắm vào”. Có lần tôi cáu tiết bảo: “Chị thì có ai yêu mà biết lãng mạn!”. Nói xong cảm thấy ân hận ngay vì sự độc ác của mình. Nhưng chị Hoài như thản nhiên và lại tất tả với “kế hoạch, chỉ tiêu” của nhà trường.
Cứ thế, cuộc sống của tôi trôi qua bên cái dáng đi khổ sở của ông Thạch, sự năng nổ của chị Hoài, sự cần cù chịu khó của những đứa học trò quê hiền lành chân chất…
Một đêm đang mơ màng, tôi sực tỉnh dậy vì tiếng ú ớ phát ra từ chiếc giường chị Hoài. Tôi tốc cái màn bộ đội lên, khuôn mặt nhăn nhúm thảm hại, mớ tóc nhễ nhại mồ hôi hiện ra. Chị bíu chặt tay tôi, rên khe khẻ, người trằn lên đau đớn. Cuối tuần, Hiệu trưởng Xuân đã về nhà, phòng ông Quyền phát ra tiếng ngáy như kéo bể, tôi cầm đèn pin chạy lên đồi gọi ông Thạch.
Chiếc chân gỗ vội vã theo tôi xuống đồi. Ông nói tôi đỡ chị Hoài tựa vào gối, kéo áo chị lên, đưa cho tôi đồng bạc trắng hoa xòe bảo cạo gió. Dưới ánh đèn tù mù, cả hai bàng hoàng nhận ra một vết sẹo lớn vắt chéo tấm lưng trần. Như sốt ruột trước những cử chỉ chậm chạp, ông Thạch giật lấy đồng bạc cạo mạnh, những vạch màu đỏ chạy dài trên da. Ông Thạch bảo tôi nấu một nồi nước lớn rồi lộc cộc đi vào bóng tối. Mười phút sau ông trở về với một ôm lá tre, lá sả… Chị Hoài như khỏe ra sau nồi nước xông. Chị nằm thiêm thiếp . Ông Thạch nói nhẹ: “Tốt rồi” và lặng lẽ đi lên. Suốt cả tuần, ông đi kiếm những lá thuốc Nam dặn tôi nấu cho chị Hoài uống.
Sau này khi đã bình phục, chị Hoài cứ chất vấn tôi sao lại để tay “lính ngụy”cạo gió, rằng hắn ta đã thấy cái sẹo của chị chưa. Chị cũng cho biết đó là vết thương sau trận bom B52 khi làm đường ở Đường 9 Nam Lào.
Cuối năm học, Hiệu trưởng Xuân về hưu. Hiệu trưởng mới tên Nghĩa từ Phòng Giáo dục huyện chuyển về. Việc đầu tiên của ông ta là cắt hợp đồng với ông Thạch vì “ Lý lịch không trong sáng”. Ông Thạch có một tuần để thu xếp trước khi nghỉ việc.
Có lẽ như tiên đoán được sự việc, ông Thạch không có gì ngạc nhiên. Ông vẫn lê cái chân tập tễnh lên xuống ngọn đồi trọc, vẫn đánh những hồi trống cuối cùng của năm học. Tôi cũng thấy lòng hơi áy náy nhưng một mùa hè rực rỡ đang hiện ra trước mắt. Tôi sẽ gặp người yêu, sẽ lại thấy ánh sáng văn minh của phố thị. Tôi nghĩ ông Thạch là một người tốt nhưng mình cũng chẳng giải quyết được gì. 
Chị Hoài có vẻ ray rứt. Mùa hè này chị tiếp tục xung phong ở lại quản lý trường. Trước hôm tôi về thành phố , chị rụt rè đề nghị anh em giáo viên mở một cuộc liên hoan và cũng để chia tay ông Thạch. Tốt thôi. Sống ở đời cần có cái tình!
Vậy là chúng tôi gom hết số tem phiếu, chực chờ để mua được các suất “thịt tươi” ở cửa hàng tận ngoài Chí Thạnh. Tôi xin học trò một quả đu đủ xanh làm gỏi. Chị Hoài lúi húi băm thịt làm món chả giò. Anh chàng Khiêm chịu khó quạt than… Mùi thơm bay lên ngào ngạt trong khu tập thể.
Đêm ấy lại có trăng. Trăng mười hai chưa tròn nhưng đủ gieo xuống trần gian thứ ánh sáng nên thơ, quyến rủ. Thầy Túy dạy Lý ôm chiếc đàn guitar độc tấu những bản nhạc cổ điển dịu dàng. Thầy Yên đi vào xóm kiếm đâu ra can rượu trắng. Ông Quyền cũng tươi tỉnh hẳn ra, chắc ông vui vì sắp về với người vợ vùng cao Tây Bắc. Chúng tôi ngồi quanh chiếc chiếu trải rộng giữa sân trường. Ngọn gió Nam mái hiu hiu. Chia tay năm học, chia tay ông Thạch và tạm xa chị Hoài. Ngày mai người xuôi Nam, kẻ ngược Bắc…
Ông Thạch có vẻ cảm động không nói được gì nhiều. Những ly rượu nhỏ chuyền tay nhau. Tôi cũng ráng uống cạn ly. Mùi rượu thơm ngây ngất, nồng nàn. Chưa bao giờ tôi thấy đồng nghiệp mình dễ thương đến thế. Bây giờ tôi mới biết tửu lượng chị Hoài rất cao. Những ly rượu được chị dốc cạn. Chị còn chê rượu có pha củ mỳ nên vị hơi khê. Chị bảo chị có nghề nấu rượu gia truyền. Có dịp nào đó chị sẽ trổ tài. Chúng tôi chúc ông Thạch ba ngày còn lại vui vẻ, chúng tôi hạch hỏi chị Hoài về chuyện tình trước khi vào quân ngũ, chúng tôi nài nỉ anh chàng Khiêm tán cô bán hàng thương nghiệp huyện để giáo viên có suất mua ưu tiên…
Trăng lên giữa đỉnh trời cuộc vui mới giải tán. Và trưa hôm sau, khi đã ngồi yên vị trên chuyến tàu vào Nam tôi mới nhớ ra tối hôm qua, trong buổi liên hoan, lần đầu tiên chị Hoài không hát bài “ Cuộc đời vẫn đẹp sao…”
*
Hai tháng trời trôi nhanh như chớp mắt. Tháng Tám, tôi trở lại trường với niềm vui. Ông chú chồng tương lai hứa sẽ thu xếp cho tôi một chỗ dạy ở thành phố trong năm tới. Tôi không quên mua quà cho chị Hoài là một cái kẹp đồi mồi thay cho cái kẹp ba lá quê mùa.
Chị Hoài đón tôi với một nụ cười nhợt nhạt, làn da vẫn tái xanh. Tôi kêu lên “Chị ốm hả?”. Chị gật đầu “Chị khó ở cả tuần nay”. Bữa cơm chiều hôm ấy có thật nhiều món tôi mang về nhưng chị Hoài chỉ ăn được lưng bát rồi trùm mền nằm. Tôi cố thật nhẹ nhàng cho chị nghỉ ngơi.
Trường đã có bảo vệ mới. Một anh thanh niên khỏe mạnh và bặm trợn phù hợp chức năng nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhớ tới cái vẻ lầm lũi và bước chân lộc cộc của ông Thạch. Không biết ông ấy bây giờ ra sao.
Giáo viên bước vào năm học mới bằng một tuần chính trị ở Tuy Hòa. Chúng tôi vui vì được kéo dài những ngày hè muộn, được rong chơi trên bờ biển, được ăn món bún mắm nổi tiếng ở chợ thị xã…Sau một năm trời gắn bó, chúng tôi cảm thấy gần nhau hơn. Cả bọn ngồi trên chiếc xe Lam chuyện trò rôm rả. Chị Hoài vẫn còn ốm nhưng là Bí thư Đoàn trường, chị không thể bỏ khóa học. Cứ buổi sáng nghe báo cáo, buổi chiều thảo luận, buổi tối kéo nhau đi quán cà phê Vị Thủy giá ba hào. “Cuộc đời vẫn đẹp sao…” dù chị Hoài có những cơn ớn lạnh vào buổi chiều. Dấu ấn chiến tranh vẫn chưa tha chị?
Buổi sáng, tôi ra cái chợ chồm hổm bên đường mua cháo cho chị Hoài. Ông Quyền tay cầm khúc bánh mì đi tới thì thầm vào tai tôi “Cô biết không? Bà Hoài chửa buộm đấy”. Chửa buộm là gì?. Tôi ngơ ngác. Ông Quyền tinh quái đưa cánh tay dứ dứ trước bụng…
Bây giờ thì không giấu ai được rồi. Những cơn nghén làm chị Hoài nôn khan. Cái bụng chị cũng đã lùm lùm sau vạt áo. Chị không hé môi với tôi nửa câu và tôi cũng không dám hỏi điều gì. Những bữa ăn thường bị bỏ dỡ .Tôi chỉ dám yên lặng chăm sóc chị với những hành động nhỏ nhặt. Một ly nước nóng, một trái khế xanh… Mấy tay thầy giáo trẻ cũng không còn ghé chơi. Những cái nhìn tò mò của học sinh và phụ huynh khi đi ngang… Đây chỉ là một vùng đất nhỏ!
Chi bộ Đảng đã có những buổi họp riêng vào buổi tối. Sau những buổi ấy, ông Quyền tránh gặp chị Hoài dù chúng tôi vẫn ở sát nhau. Dáng đi của chị Hoài nặng nề hơn, khuôn mặt lạnh căm. Tay bảo vệ mới tỏ ra nhiều chuyện. Hắn ta thì thào ông Quyền là người phê phán chị Hoài nặng nề nhất :“vi phạm đạo đức Cách mạng, không xứng đáng ở trong hàng ngũ Đảng viên, không là tấm gương sáng cho học sinh…” Hiệu trưởng mới thì cứ khăng khăng buộc chị Hoài nói rõ ai là tác giả của cái bào thai trong bụng chị “để tránh gây hoen ố cho nhà trường”. .. Cuối cùng Chi bộ quyết định một buổi họp Hội Đồng sẽ đưa vấn đề của chị Hoài ra và công bố hình thức kỷ luật.
Nhưng sẽ không bao giờ có buổi họp ấy vì khi tôi vào Nha Trang họp chuyên môn, một buổi sáng tinh mơ chị Hoài đã lẳng lặng bỏ đi …
Mọi người có vẻ nhẹ nhõm với cái kết cục bất ngờ ấy. Hiệu trưởng nói to: “Thiếu chút nửa trường ta mất danh hiệu tiên tiến, công sức phấn đấu của anh em đổ xuống sông xuống bể…”Nhìn nụ cười của ông ta tự dưng tôi ớn lạnh. Cũng kể từ đó cho đến lúc rời trường ,tôi không còn bắt chuyện với ông Quyền nữa
Chị Hoài ra đi để tôi lại với sự trống vắng đến ngỡ ngàng. Tôi tự dằn vặt đã không gần gũi chị hơn. Tại sao chị không bày tỏ với tôi? Nhưng quả thật tôi cũng chẳng biết làm gì…Suy cho cùng tôi chỉ là một cô gái trẻ chưa có kinh nghiệm với cuộc đời. Tôi cũng đặt ra nhiều câu hỏi không biết chị Hoài lỡ dại với ai? Tay bạn trai đồng hương đôi lần ghé? Có khi nào là ông Thạch trong ba đêm còn ở lại trường? Hay một đêm sáng trăng chị Hoài đi qua vườn ông Hoàn và…? Hoặc là một người nào đó chăng? Chẳng ai giải thích giùm tôi.
Nửa tháng sau Sở bổ sung giáo viên về trường. Không chỉ một mà hai. Chiếc giường cá nhân của chị Hoài được chuyển cho cô giáo mới. Khi lật chiếc chiếu của chị, tôi nhận ra chị Hoài đã bỏ quên cuốn sổ tay cũ kỹ yêu quý. Tôi lật từng trang. Những bài thơ Tố Hữu… những bài hát hào hùng… và trang cuối cùng là bốn câu thơ lỡ dở của Nguyễn Đức Mậu:
Chiến tranh đã tắt từ lâu
Vườn cau trái rụng, giàn trầu héo hon
Nửa đêm gió lạnh trăng mòn
Có người nghe tiếng ru con khóc thầm 
Ôi, chị Hoài!!!
Cuối năm học, tôi được thuyên chuyển như lời hứa của ông chú chồng tương lai. Giã từ những kỷ niệm với chị Hoài! Giã từ những cơn Nam mái và Nam cồ! Giã từ ngôi trường cho tôi nỗi buồn nhiều hơn niềm vui!
Sau này tôi nghe trường đã đổi ra thị trấn Chí Thạnh, được xây dựng rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn, tiện nghi hơn và đặc biệt trường đã có tên của vị Tổng Bí thư thứ nhất.
Có hai lần tôi ngồi trên xe hơi đi qua vùng đất ấy. Đầm Ô Loan nhìn xa vẫn đẹp với làn nước trong xanh. Con đèo Quán Cau đựợc san lấp mở đường đã biến thành một con dốc. Và nhìn từ xa, ngôi trường Đồi vẫn chơ vơ qua làn bụi mỏng. Không biết bây giờ nó thuộc cơ quan nào…
***
Năm 2010, vợ chồng tôi quyết định “hấp hôn”bằng một chuyến du lịch Đà Lạt. Thành phố cao nguyên lờ mờ trong màn sương có sức quyến rũ kỳ lạ. Đứng trên những con dốc chúng tôi đắm mình trong vẻ đẹp kỳ ảo của đất trời tháng mười một. Chồng tôi cứ xuýt xoa tiếc mình không phải là họa sỹ để có thể tái tạo bức tranh của thiên nhiên. Thay vì đi quanh phố xá, chúng tôi leo ngọn LangBian, len lỏi vào các buôn làng người Chil ở Lạc Dương, dự một buổi rượu cần còn nguyên vẻ hoang sơ rừng núi…
Chuyến đi làm tôi có cảm tưởng được trẻ lại dăm tuổi. Đến ngày thứ năm, chồng tôi sực nhớ ra nên đi thăm một ông cậu ở vùng đất Đạ Tẻh: Cậu Chương.
Cậu Chương là con nuôi của bà ngoại chồng tôi. Cậu hiền lành, tốt tính chỉ phải tội có quá nhiều con. Nhớ năm đầu tiên về làm dâu đến chúc Tết nhà cậu, tôi phát hoảng vì gần một tiểu đội sắp hàng chờ mừng tuổi. Những năm khó khăn, nhà cậu mợ toàn phải ăn bo bo. Bà ngoại hay nhiếc “Đẻ cho lắm vào!” rồi sau đó lại dúi cho mấy bơ gạo. Năm 1981 cậu mợ quyết bỏ quê đem gia đình đi theo chính sách di dân mở khu kinh tế mới ở phía tây tỉnh Lâm Đồng. Chúng tôi cũng làm kiếp tha hương, chưa hề gặp lại cậu sau ngần ấy năm, chỉ nghe nói đại gia đình cậu bây giờ khá vững vàng. Thôi thì tiện đường ghé thăm và cũng để biết thêm một vùng đất mới. 
Từ quốc lộ 20 xe đưa chúng tôi rẽ vào phía tay phải. Con đường càng lúc càng thấp dần. Mùa khô đã trở về nhưng thời tiết vẫn mát lạnh. Trên cùng chuyến xe nhưng chúng tôi lại nghe hành khách nói nhiều giọng khác nhau. Chồng tôi tò mò hỏi thì mới biết huyện tập trung nhiều cư dân từ nhiều tỉnh như Hà Tây, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định…Dấu ấn quê hương thể hiện qua những cái tên như xã Mỹ Đức, Quốc Oai, Triệu Hải, Hương Lâm, An Nhơn…Tôi bồi hồi nhớ đến những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca Mặt đường khát vọng nói về tình quê của cha ông đi mở đất:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân…
Hai đứa con cậu Chương đã chờ sẵn ở bến xe trung tâm của huyện. Nhìn hai cậu thanh niên cao lớn khỏe mạnh với trang phục áo Pull quần Jean đúng mốt, cỡi xe máy tôi không hình dung ra đây là những đứa bé xanh rớt, mũi dãi năm nào.
Cậu mợ đón chúng tôi trước căn nhà rộng được bao bọc bởi những cây điều sai trái. Hai ông bà tóc bạc nhưng khỏe mạnh với nụ cười tươi rói. Vây quanh ông bà bây giờ không phải con cái mà là bầy cháu mười lăm đứa. Những cậu con trai đều được chia đất sống gần gũi chung quanh, chỉ “ới” một tiếng là năm phút sau có mặt đầy đủ.
Bữa ăn tối được bày ra trên hàng hiên.Trăng thanh bình. Gà vườn thịt dai và ngọt, rau sạch xanh mướt trên dĩa, hạt cơm mới thơm phức…. Cậu Chương nâng ly rượu trên tay:
-Uống đi anh chị, uống đi các con…Uống để ôn lại những tháng ngày gian khổ. Đất chẳng phụ người bao giờ.
Ngày đặt chân lên vùng kinh tế mới này, nhìn cảnh đồi núi hoang vu, cỏ tranh bao phủ, cậu Chương không tránh khỏi sự nản lòng. Một số gia đình đã quay về quê cũ hoặc chạy dạt lên Bảo Lộc làm thuê, buôn bán qua ngày. Nhưng nhớ lại lời thề độc ngày bỏ quê, nhìn lại đàn con mười đứa, trong số có sáu thằng, cậu mợ nhất quyết bám trụ. 
Vậy rồi ngay lúc còn ăn gạo trợ cấp đầy mọt, mấy cha con đã lo vỡ đồi trồng lương thực ngắn ngày như khoai sắn, vào rừng đốn gỗ cắt tranh lợp nhà, tìm nơi đất trũng cấy lúa… Máu, mồ hôi, nước mắt đã đổ xuống nhưng gia đình cậu đã có cái ăn.
Đất lành chim đậu, vùng đất mới chiêu tụ nhiều gia đình khắp các vùng miền. Người ta cần đất, người ta thèm đất và người ta cải tạo đất để có những khu vườn trù phú, những cánh đồng màu mỡ hôm nay… Đateh trở thành một miền đất nhiều người mơ ước. Một vài căn nhà ở trung tâm huyện đẹp như biệt thự của người thành phố nhưng hỏi ra mới biết chủ nhân của nó là những người chịu khó làm ăn thành đạt. Nhìn những vườn điều, những hàng bơ sai trái, những mẫu cao su mới được đưa vào đầu tư, tôi nghĩ về công lao của những người mở đất. Đứa cháu cả cầm đũa giục chồng tôi:
-Uống đi anh, rượu Đạ tẻh nổi tiếng cả tỉnh Lâm Đồng. Ai về đây cũng kiếm mươi lít mang đi. Không hiểu do gạo, nước hay do người nấu…Chắc là cả ba.
Mợ Chương ngắt lời: “ -Mai xuống bà An kiếm cho anh mày chục lít . Rượu Đạ tẻh ngon nhưng ngon nhất ở đây phải là rượu bà An.Uống đậm mà không đau đầu. Rượu ấy chỉ người quen mới mua được…”
Bữa cơm rộn rã trong niềm vui sum họp của những người tha hương.
*
Tôi theo cháu gái xuống xóm mua “rượu bà An” theo lời dặn của mợ Chương. Qua con dốc, bức tranh đồng quê thanh bình hiện ra trước mắt . Một nếp nhà gỗ xinh xắn nép mình trong vườn cây xanh. Hàng cau thẳng trước nhà gợi nhớ khung cảnh của làng quê xứ Bắc. Đàn gà con lúc thúc theo mẹ bới quanh đống rơm, làn khói bếp nhẹ nhàng lan tỏa…Đứa cháu đẩy nhẹ cánh cổng:
-Bà An ơi! Để cho nhà cháu ít rượu…
Người đàn bà bước ra từ cửa căn nhà ngang, nói to:
-Mới sáng sớm mà đã mua rượu. Bảo bà mày cho ông uống lắm vào rồi hư người đi. Chờ bà chút nhá. Mới ru thằng cháu ngủ cho mẹ nó lên trường…
Giọng nói bỗ bã quen quen đánh thức tiềm thức. Ai thế nhỉ? Người đàn bà nào dáng tất tưởi thế kia. Mái tóc bạc ngẩng đầu lên. Tôi bàng hoàng..Chị Hoài? Đúng là chị Hoài của hơn ba mươi năm trước. Thời gian qua đi nhưng tôi chưa thể nhầm. Tôi thốt lên : “ -Chị Hoài! Em đây, Thu ngày xưa của chị đây!”
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Ngỡ ngàng. Xúc động. Quả đất tròn nhưng gặp nhau trong khung cảnh như thế này thì thật là điều khó tưởng tương. Chị Hoài nắm chặt tay tôi:
-Chị cũng không ngờ …Chị mừng lắm, vui lắm em…
Chị Hoài tíu tít đưa tôi lên nhà trên. Chị ấn tôi ngồi xuống bộ bàn ghế giữa nhà, vội vã pha trà chế nước:
-Chờ chị chút. Chị ra vườn hái ổi cho em ăn!
Căn nhà gọn gàng như thói quen chu tất của chị. Trên tường treo những bức ảnh gia đình. Ảnh chị Hoài mặc áo dài nhung màu xanh, ảnh một cặp vợ chồng ngày cưới, ảnh đứa cháu lẫm chẫm bước đi… Chị Hoài cắt những miếng ổi trắng tươi, hướng theo ánh mắt tôi:
-Chị đấy. Ngày lên lão bảy mươi đấy. Con trai và con dâu kia. Cháu nội đầu lòng đang ngủ. Con dâu mới bầu đứa thứ hai…
Niềm vui ngời sáng trên mặt chị. Tôi hỏi chị: 
-Sao tên chị lại là An? Làm em chẳng nhận ra.
Chị cười: “ -Tên thằng cu. Ở đây người ta gọi theo tên con. An là xã An Cư đấy . Em nhớ không?”
Một khoảng lặng giữa hai chị em. Ôi! Những ngày sao tôi muốn quên…
Chị Hoài kể sau những đêm kiểm điểm trong căn phòng trên ngọn đồi heo hút ấy chị đã bỏ đi. Chị không thể về quê vì miệng lưỡi xóm làng, vì gia đình người anh quá nghèo. Chị lang thang ở bến xe Nha Trang hai đêm rồi tình cờ gặp một gia đình Hà Tây đi kinh tế mới, chị đã quyết định theo họ… Tủi thân, cay đắng, đoạn trường nhưng rồi cũng qua…Đôi bàn tay một thuở Trường Sơn đã tưởng được thong thả với ngòi bút viên phấn lại tiếp tục sứt sẹo, chai sần.Thằng An đã sinh ra và lớn lên ở trên quê hương mới.Thời gian như một cái chớp mắt. Năm nay nó đã ba mươi hai tuổi đang làm ngoài thị trấn, con dâu dạy trường Tiểu học gần nhà. Chị vẫn khỏe, ở nhà trông cháu nội. Rảnh rổi lại nấu mẻ rượu cho người quen kiếm thêm thu nhập. Cuộc sống không giàu nhưng an ổn, hạnh phúc. Nhìn mắt chị, tôi hỉểu đây là sự thật.
Chia tay tôi, chị thì thầm: “- Thu biết không, chị không bao giờ ân hận vì những gì đã xảy ra…”
Và tôi cũng chẳng cần hỏi chị về người bố của thằng An. Điều đó quả thật là không cần thiết.

                                                     Viết ở Trại sáng tác Đateh
                                                             Ngô Hương Thủy

READ MORE - CHỊ HOÀI - Truyện ngắn của Ngô Hương Thủy

MƠ - Thơ Đặng Xuân Xuyến






Trăng vàng lả lướt bến sông
Đắm hồn tôi với mênh mông gió trời...

Tôi mơ một tiếng gọi mời
Cạn chung ly để đến hồi yến oanh
Chẳng cần e lệ ngó quanh
Chẳng cần vội vội nhanh nhanh làm gì
Cứ từ từ thả xiêm y
Cứ từ từ với thầm thì những yêu...

Một liều.
Ba bảy cũng liều
Ngán chi thiên hạ nói điều khó nghe...

Làng Đá, đêm 24 tháng 09.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

READ MORE - MƠ - Thơ Đặng Xuân Xuyến

SÀI GÒN THẤT THỦ - Thơ Nguyễn Khôi





SÀI GÒN THẤT THỦ
(Tặng Lê Vy & Nguyễn Bàng)
                     
Dân "phây" (Fb) kháo: "Sài Gòn thất thủ" ! ?
Chìm trong mưa, biển nước ngợp trời
Xe máy thành cá tôm ngoi ngóp
Vua Thủy Tề được dịp dong chơi...
                     
Ngập, ngập, ngập : đâu mấy ông "thoát nước" ?
Xơi bao tiền"chống ngập" vẫn bó tay
-Tại dân ngu xây lấp hết dòng chảy
-Tại Villa, Công Sở chen dày...
                     
-Tại "Quy hoạch"...hết nhiệm kỳ "mặc kệ"...
- Tại "Đế, Bành, Thiên, Tiểu"...chúng vô can (1)
Sài Gòn ngập...Ôi "Sài Gòn thất thủ " !?
Còn xơi (mới) thành "Hòn ngọc viễn đông".
                       
Dân cứ khổ...trông chờ ai đây nhỉ ?
"Tự cứu mình" ? - quả thật bất khả thi
Ông Thăng giỏi hãy ra tay tế độ
vì Sài Gòn
"Bia đá" sẽ tạc ghi.

                             Hà Nội 18-9-2016
                             NGUYỄN KHÔI
....................

(1) Đế quốc, Bành trướng, Trời, Tiểu nông / mất mùa là tại Thiên tai...

READ MORE - SÀI GÒN THẤT THỦ - Thơ Nguyễn Khôi

THÚ CHƠI DÂN GIAN TẾT TRỊ THIÊN - Tạp văn của Ugno.Vn



                                          Bài tới


           THÚ CHƠI DÂN GIAN TẾT TRỊ THIÊN
                                                 Tạp văn của Ugno.Vn              

Tết nông thôn Trị-Thiên thực sự đến chỉ từ chiều 30, khi bữa cơm cúng dọn từ bàn thờ bưng trải ra mâm, cả nhà quây quần trên chiếu phản trong khi bên ngoài trời chuyển màu dần sang tối. Đó là bữa cơm cúng mời tổ tiên và táo quân, thổ địa trở về nhà ăn Tết. Những ngày giáp Tết công việc đồng áng bề bộn, có nhiều nhà tuy đã dựng con nêu và tiễn đưa ông táo về trời từ ngày 23 tháng Chạp, nhưng không khí xuân chỉ thực sự hiện diện trong mỗi gia đình từ chiều nay, sau bữa cơm chiều thịnh soạn, bàn thờ hương chong, đèn rạng, cả nhà tất bật chuẩn bị cộ cúng giao thừa đón chào năm mới.
Sáng mồng một mở đầu năm mới, mỗi gia đình chọn người tuổi tốt  xuống giường đạp đất đầu năm. Ngoài những nghi lễ ngày Tết gia đình thường bắt đầu từ mỗi buổi sáng gồm cúng bái tổ tiên, mừng tuổi cha mẹ, người thân, thăm viếng họ hàng, xóm giềng, chúc mừng con cháu,… người dân nông thôn còn dành nhiều thời gian tham gia nhiều trò chơi dân dã mua vui, cầu mong vận may, điều tốt đẹp cho cả năm.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin giới thiệu một vài thú chơi dân gian Tết Trị-Thiên cách đây chừng 50 – 60  năm trước.
1. CHƠI BÀI TỚI
Bài tới thóat thai từ cổ bài lá tổ tôm. Đánh tổ tôm, đánh chắn, đánh tài bàn đều sử dụng cổ bài lá tổ tôm nhưng khác nhau về cách chơi . Đánh tổ tôm rất khó, chỉ dành cho các cụ thâm nho. Đánh chắn, tài bàn tuy qui luật ít nghiêm ngặt hơn nhưng giới bình dân khó lĩnh hội, nhất là phụ nữ và lớp thanh niên nông thôn. Ca dao xưa đã có câu về thú chơi tổ tôm  như là một cách thể hiện trình độ và phong cách của bậc kẻ sỹ nho gia:
Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống chè Mạn Hảo xem Nôm Thúy Kiều.
Bài tới là một phát kiến  sáng tạo từ các quân bài tổ tôm gồm ba pho: pho Văn, pho Vạn, pho Sách, mỗi pho 10 quân bài. Tuy tuân thủ kết cấu 3 pho của tổ tôm nhưng tên gọi và hình ảnh các con bài tới có thay đổi. Trong khi tổ tôm gọi tên các con bài theo thứ tự các pho như nhị văn, tam vạn, ngũ sách, cửu sách… thì bài tới gọi tên các con bài tương ứng là con trường hai, con quăng, con dày, con gối…
Chơi bài tới không rườm rà, dễ tập, phù hợp điều kiện nông thôn nông nghiệp, đáp ứng được nhu cầu giải trí bình dân nên phổ biến  rộng rãi.
Bảng sau đây đối chiếu 30 quân bài của tổ tôm và bài tới:

Tên con bài/ Pho
Pho Văn
Pho Vạn
Pho Sách
Nhất
Bạch tuyết
Trò
Nọc đượng
Nhị
Trường hai
Đấu
Nghèo
Tam
Trường ba
Quăng
Tứ
Voi
    Cẳng (Hương)
Gióng
Ngũ
Rốn
Ngủ
Dày
Lục
Sáu tiền
    Chuôm (Xơ)
Sáu nút (Sáu hột)
Thất
Liễu
Nhọn
Sưa
Bát
Tám tiền
Bồng
Tám dây (Tám hột)
Cửu
Xe
Thầy
Gối
Ba con cặp yêu
Ầm
Tử
Mỏ

Con bài tới làm bằng giấy bồi, có hình chữ nhật đứng 2 x 8,5 phân. Mặt trước là hình con bài, mặt sau đều một màu xanh hoặc đỏ, đỏ cam. Lá bài tới in bằng bản khắc mộc, được cho là tốt khi giấy in bài cứng vừa phải; mặt trước con bài in hình rõ nét, mặt sau đều màu, không có dấu dễ lộ bài; bộ bài chơi nhiều lần được xoa xáo trộn trên chiếu không bung góc, không nhàu, khộng đổ xơ. Khỏang giữa thế kỷ trước, khi  còn là thiếu niên, đi học về tôi phụ cô tôi bán tạp hóa ở chợ Đông Ba. Những tháng  cận Tết, quán nhận tranh ảnh thờ của người làng Sình hay giấy tiền vàng mã của thím Hoài, một người Tàu ở đường Gia Hội, gần chùa Ông để bán,  tôi thường thấy  có thêm các bộ bài tới. Hình ảnh con bài  sắp xếp theo hệ thống của 3 pho. Pho Văn tượng hình bằng những vòng  tròn như bánh xe và nửa đồng tiền đồng. Pho Vạn vẽ hình người bằng những nét kẽ gần như trường phái hội họa tượng trưng ngày nay. Pho Sách vẽ các nút hình tròn nhỏ liên kết nhau, giữa các vòng tròn có một chấm đen. Phía trên các con bài đều có hàng chữ nho ghi tên con bài như của tổ tôm (tứ văn, thất văn, thất vạn, ngũ sách…). Về sau, hàng chữ này được thay thế bằng chữ quốc ngữ, ghi tên con bài theo tên của bài tới (voi, liễu, nhọn, dày…).Người chơi bài tới không mấy quan tâm đến các chữ này. Họ chỉ nhận diện con bài qua hình vẽ. Khó nhất là trong pho vạn, hình nào cũng na ná như nhau, chỉ  có vài tiểu tiết nhỏ để phân biệt. Người mới chơi khó phân biệt con cẳng, con ngủ, con đấu, con chuôm…nếu không chú ý con cẳng mặt nghiêng, phía dưới có 4 đường sóng, con ngủ trọc đầu, con đấu như con ngủ nhưng đỉnh đầu đội một ô như cái đấu, con chuôm thì phía trên đầu có một mảng gạch chéo như chuôm…
Một hội bài tới dùng 2 lần bộ bài (60 con), chia làm hai phe, mỗi phe 30 con. Sòng bài tới phải có đủ 6 người, mỗi phe 3 người ngồi một bên chiếu. Giữa hai phe là ngọn đèn dầu làm ranh giới. Hai phe cách biệt nhau và giữ bí mật các quân bài mỗi người cầm trên tay. Trong cùng một phe, 3 người có thể nhìn bài nhau để bàn luận con bài đánh ra nhưng không được trao đổi bài cho nhau. Trước một ván bài, mỗi phe lật sấp 30 con bài đều trên chiếu, xoa xáo trộn để mỗi người bốc ngẫu nhiên 10 con bài cho tay mình. Người vừa tới ván trước ra một con bài đi chợ cho phe bên kia. Ở phe kia, người có giữ con bài đó ra tiếp một con bài khác trả lại cho phe đối phương. Cả hai con bài đều được vất ngữa xuống chiếu để đối phương kiểm tra. Cứ thế, giữa hai phe lần lượt nhận bài, ra bài. Người nào nhẹ tay đi hết 4 cặp bài sớm, còn hai con cuối thì chực. Nếu phe kia đi một con bài trúng với một trong hai con bài chực, thì được tới. Những con bài đã đi đều được lật ngữa và giữ ở chiếu của mỗi phe, không lẫn lộn với phe bên kia.
Cách chung tiền thắng cho người tới bài tùy thuộc lệ giao trước khi chơi. Lệ được dùng nhiều nhất là trước khi vào một hội, cả 6 tay chơi đều chung tiền để dưới đế đèn. Hễ ai tới thì được ăn một ván, lấy một phần tiền chung. Khi người tới bài ăn hết 6 phần tiền chung thì hết hội, phải chung tiền để đánh hội khác. Có những  hội bài sặc mùi ăn thua thì lệ qui định người tới lấy hết tiền chung và các tay chơi phải đậu lại hội mới. Có sòng bài theo lệ chia làm hai phe, người tới bài  được 3 tay bài phe kia chung tiền. Cách chung tiền kiểu này buộc các tay bài cùng phe phải liên kết tính tóan để người phe mình được tới. Ở phe thắng, dù chỉ một người được nhận tiền chung của 3 người phe kia, nhưng hai người trong phe khỏi phải mất tiền. Chung tiền theo phe khiến sòng bài tới hấp dẫn hơn nhưng cũng dễ sinh ra gian dối khi các tay bài cùng phe lén đổi bài cho nhau để giành tới về phe mình.
Trong bộ bài tới có 3 con cặp yêu của ba pho không được chực. Đó là con ầm, con tử, con mỏ. Các con bài này đếu có kí hiệu màu đỏ nên được gọi là bài đỏ. Con ầm tô đỏ cả con bài. Con tử, con mỏ chỉ  có một vòng tròn đỏ đóng phần trên hình vẽ. Người chơi bài tới thích bắt được các con bài này vì nó dễ đi nhưng không tính tóan kỹ thì đôi khi bị đền. Đó là trường hợp  một tay bài chỉ còn lại 4 con bài trên tay, trong đó có 2 con bài đỏ. Nếu phe bên kia đi trúng một con bài đỏ thì tay bài này đi trả con bài  đỏ thứ hai, trên tay còn hai con bài đen để chực. Nếu không may, phe kia đi trúng một con bài đen, thì tay bài này chỉ đi được một con bài đỏ và trên tay còn lại một con bài đỏ (trong 2 con chực cuối cùng) và thế nào phe đối phương cũng đi con bài đỏ này. Thế là tay bài ấy bị tới thối, không được ăn tiền còn phải phạt, chung tiền một suất theo lệ chung tiền cho tay bài phe bên kia phát con bài tới đó. Ván sau tay bài tới thối phải đi chợ cho sòng bài. Mà đã đi chợ thì cuối bài chỉ được chực một con, thiệt thòi một nửa so với các tay bài khác.
“Chẳng thong dong cũng ba ngày Tết”. Dù suốt năm vất vả đến mấy, ba ngày Tết người dân nông thôn cũng cố tạo ra không khí no đủ, thảnh thơi cho gia đình. Họ tin đó là điềm lành cho cả năm. Những ngày ấy trong nhà không thể không có sòng bài tới. Chiếc chiếu hoa mới dành cho ngày Tết được trải ngay ngắn trên chiếc giường ở một góc nhà. Sáu người túm tụm xoa bài, tranh bắt bài, ra bài rôm rả bằng cả điệu bộ và ngôn ngữ thân mật. Tiếng cười dòn không ngớt vang lên khi có người tinh nghịch hô tên quân bài một cách bông đùa, xỏ xiên. Khách ra vào chúc Tết đôi khi cũng bị sòng bài tới lôi cuốn, ngồi chơi mãi không về. Sòng bài tới khác hẳn các lọai sòng bạc khác. Chủ nhà đã không có tiền xâu, lại còn bỏ tiền lựa mua bộ bài tốt, tốn thêm trầu chè, bánh mứt. Giới đàn ông thường ít thích chơi bài tới bằng phụ nữ. Có những chị mê chơi không chỉ ba ngày Tết mà kéo dài nhiều ngày, suốt tháng, bỏ việc, thua tiền. Vì thế dân gian có vè bài tới như sau :
Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè bài tới/ Cơm chưa kịp xới/ Trầu chưa kịp têm/ Tôi đánh một đêm/ Thua ba tiền rưỡi/ Về nhà chồng chửi/ Thằng Móc, Thằng Quăng/ Đánh sao không ăn/ Mà thua lắm bấy/ Tôi lấy tiền cấy/ Cho đủ mười ngày/ Năm dày bảy sưa/ Cũng là nhịp kéo/ Chị em khéo léo/ Dễ mượn dễ vay/ Thân tôi ngày rày/ Dầm sương dãi nắng/ Chị em có mắng/ Tôi cũng ngồi đây/ Nó là năm dày/ Nó cũng a dua/ Ăn thì tôi lùa / Thua thì tôi chịu.
Bộ bài tới được vận  dụng  vào nhiều cách chơi khác nhau. Chơi bài tới là  cách phổ biến nhất ở vùng nông thôn Trị-Thiên mỗi dịp Tết đến, xuân về. Bài tới chỉ chơi trong nhà. Ngày Tết, lễ hội, bộ bài tới còn được cải biên cách chơi để phục vụ nhiều người nơi công cộng. Đó là bài chòi, bài thai

2. HỘI BÀI CHÒI
Bài chòi, trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề cập đến một thú vui chơi cờ bạc dân gian phổ biến, đậm nét văn hóa, khác với nghệ thuật bài chòi mang tính diễn xướng sân khấu, phát triển thành tuồng tích như hát bộ, cải lương ở các tỉnh Nam Trung bộ Bình Định, Phú Yên, nơi sản sinh ra nghệ thuật tuồng cổ hát bộ, chèo cổ đưa linh, mà có nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm đã giới thiệu.
Ở vùng Trị-Thiên, bài chòi thuần là một trò chơi cờ bạc trong các dịp hội hè, lễ Tết. Tuy có yếu tố diễn xướng dân gian thu hút quần chúng, nhưng người tham gia các cuộc chơi bài chòi chỉ xem đó là phụ. Cái chính là khi tham gia bước lên các chòi bài đầu năm, người  chơi  chỉ để mua vui, đóan thời vận hên xui cho tháng ngày năm tới. Có những người mê bài chòi đến nỗi giữ chòi suốt từ sáng tinh mơ, khi hội bài chòi bắt đầu hô bài, đến hết ngày, khi hội bài chòi nghỉ đêm. Người nhà phải mang cơm nước ba bữa đến tận chòi phục vụ. Ca dao đã có những câu chế diễu được đưa vào thai bài chòi như sau:
Mẹ ham đi đánh bài chòi
Để con khát sữa khóc lòi rốn ra
Bài chòi dùng 30 con bài của bộ bài tới. Nhưng để tổ chức được một hội bài chòi, ít nhất phải có 3 bộ: 30 con phát cho người chơi, 30 con để nhà cái hô, 30 con chuẩn bị khi thay ván bài.
Gọi là bài chòi vì người chơi bài không ngồi quây quần trên một chiếc chiếu. Mỗi người chơi bài chòi được ngồi một chòi riêng, cách biệt hẳn với các chòi khác để giữ bí mật con bài.
Chòi được dựng như một nhà sàn nhỏ, cách mặt đất cao hơn chừng thước, thước rưỡi. Chòi vuông vắn vừa đủ kê một chiếc ghế dài cho hai người ngồi. Mái chòi lợp tranh, vách chòi đan phên tre hay lợp gót. Phía trước chòi bỏ trống, treo một bức màn làm cửa. Một cái thang nhỏ bắc lên để người chơi bước lên phía trước cửa chòi. Môt chòi  là một cửa chơi nhưng thường thường  người chơi rủ thêm một hai người khác nữa cùng lên ngồi với mình.
Một hội bài chòi có 10 hoặc 11 chòi con xếp thành hai hàng song song, nhìn mặt vào nhau qua một vuông sân ở giữa. Cuối hai dãy chòi con là cái chòi  lớn hơn, trang trí đẹp hơn, quay mặt hướng về hai dãy chòi con. Chòi này dành cho chủ hội bài chòi, gọi là chòi cái.
Nếu hội bài chòi tổ chức 11 chòi con thì bộ bài tới được bổ sung thêm ba con bài dán giấy xanh, giấy đỏ, giấy vàng. Bộ bài tới tăng lên thành 33  con. Bắt đầu hội, 11 người chơi lên 11 chòi con, đậu cho chủ hội bài 11 xuất tiền. Người của hội bài cầm một ống bài có những thẻ tre gọt đẽo khá công phu, dán hình các con bài, ông này đi từng chòi con để người chơi rút ngẫu nhiên 3 thẻ bài cho một ván. Ở chòi cái, một ống bài lớn hơn treo quá tầm nhìn của người hô bài. Các ống bài đều để ngược thẻ bài, dấu kín phần con bài trong ống, chỉ còn phần cán thẻ lộ ra khỏi ống bài để bốc.
 Khi mọi việc tổ chức cho một ván bài vừa xong, trống nổi lên, phường bát âm hết tò te tí te, người hô bài (ông hiệu) dạo đầu vài câu hát bài chòi rồi bắt đầu rút từng thẻ bài một, hô lớn cho cả hội bài cùng nghe. Người chơi ở một chòi nào đó, phát lên 3 tiếng gõ vào chiếc mõ tre treo trước chòi cóc cóc cóc. Đó là âm thanh báo cửa này đã được đi con bài vừa rao. Tuần tự các con bài trong chòi cái được hô lên, các chòi con có tiếng mõ đáp lại đã đi bài. Một lúc nào đó, bỗng ở một chòi con mõ dục liên hồi, báo hiệu đi hết ba con bài, đã tới. Người của hội bài đến tận chòi người tới bài, cầm 3 con bài lên trình ông hiệu kiểm tra lại và hô lớn cho cả hội cùng nghe. Kiểm tra không có gì trắc trở, người của hội bài mang tiền đến chung tận chòi tới bài, kèm theo một cây cờ nheo đỏ cắm lên chòi. Người của hội bài thu lại tất cả các con bài trong 11 chòi, phân tiếp bộ bài mới, chơi ván tiếp theo.
Mỗi hội bài chòi có 11 người chơi nhưng chỉ đánh 10 ván (10 cờ). Một cờ dành cho ban tổ chức hội bài chòi. Như thế mỗi hội bài ít nhất có một người không được tới. Nhìn những lá cờ nheo đỏ cắm lên các chòi tới bài, người ngòai có thể thấy được kẻ đỏ, người đen. Có chòi 2-3 cờ nhiều thì chòi không có cờ càng nhiều hơn. Khi đã tới đủ 10 cờ, hết hội, các chòi con thay người, chuẩn bị cho hội bài mới.
Bài chòi thường được tổ chức ở sân đình, sân chùa, sân chợ  vào dịp tế tự, lễ Tết. Thù lao cho người tổ chức hội bài chòi là một cờ dành ra trong 11 xuất tiền của người chơi bài. Số tiền này không nhiều so với công lao của  gần mười người trong ban tổ chức, phường bát âm và chi phí trầu cau, thuốc trà. Nhưng hình như không khí hào hứng của hội bài đầu năm lôi cuốn, ít ai nghĩ tới thù lao nhiều hay ít. Người trong ban tố chức cũng là các chức sắc, bô lão đến tuổi nghỉ ngơi, tham gia hội bài là dịp mua vui, giải trí. Người chơi bài thử vận may rủi đầu năm chỉ ngồi chòi một hai hội, không tới lần nào thì mặt buồn rầu,  lo lắng vận xui cả năm. Xuống chòi, họ lẳng lặng vào chùa, vào đình đốt  nhang cầu khấn. Người tới hai ba cờ thì mặt tươi như sáo, cười nói vui vẻ. Thử thời chỉ chừng ấy thôi, họ xăm xăm đến chòi cái nhai miếng trầu, hút điếu thuốc, uống một ngụm trà, chào hỏi người hô bài xem như là sứ giả mang vận may đến cho gia đình cả năm. Vài người, trước khi ra về không quên gởi tặng ban tổ chức hội bài một hai ván thắng. Người mê bài chòi, nếu chậm chân không ra sớm để giành một chòi chờ khai hội đầu ngày mới thì xăm xe lui tới các chòi, hỏi han tìm chòi nào người chơi không giữ tiếp hội sau, xin lên ngồi một bên, xí phần thay thế.
Hội bài chòi ngày Tết bắt đầu từ sáng mồng một đến ngày hạ nêu. Những ngày đầu Tết, khách đông, ban tổ chức phải xoay xở tất bật để vừa tổ chức hội bài suôn sẻ vừa đáp ứng khách đến xem, nghe hát bài chòi, hò con bài thai. Đôi ba ngày thấm mệt, dù ngừơi hiệu thay đổi nhiều lần, vẫn tắt tiếng, khàn hơi. Khi ấy thì câu hát bài chòi mở hội ngắn đi, câu thai hò con bài ra cũng rút lại vài dòng, đôi khi giản tiện chỉ hô trống trơn tên con bài. Những ngày cuối, ngồi chòi chỉ còn là những người nghèo, người mê bài cạn tiền, lưng túi. Người tổ chức giảm dần  háo hức nhưng không dừng hội bài được vì người chơi bài còn nhiều và lệ làng chưa cho phép. Tiền ván bài nhập hội ít đi, những người chơi bài thỏa thuận dành hai cờ cho ban tổ chức để đủ chi phí hội bài.
Buổi chiều làng hạ nêu thì hội bài chòi cũng có lễ cúng tổ tạ ơn. Các chòi tháo dỡ xong  còn trơ lại sân đình, sân chùa xác xơ cây cỏ. Người người lần lượt ra về. Đêm mới  buông mà trăng lưỡi liềm mỏng dính đã xế quá hàng tre là ngà xa ngòai bờ sông, nghiêng bóng  cây bàng vừa nhú đầy lá xanh non phủ kín bãi hội bài chòi. Không khí tĩnh mịch trở lại chốn tôn nghiêm. Sương phả hơi lạnh đánh thức mầm sống trong những gốc cỏ bị bàn chân người chơi hội giày xéo, chuyển mình, vươn lên xóa nhòa dấu vết ngày qua để năm sau còn đón hội bài trở lại.
Có những lúc, những nơi, do điều kiện không dựng được các chòi, ban tổ chức chỉ bố trí từng ô ghế kín, cách biệt nhau. Bài chòi kiểu này gọi là bài ghế. Ở các khu phố có nhiều cư dân gốc Trị-Thiên như Ấp Ánh Sáng, Khu phố Thái Phiên ở Đà Lạt, mỗi dịp Tết thường có  các hội bài ghế được tổ chức, thu hút nhiều người đến chơi.
Nói đến hội bài chòi không thể không điểm qua vai trò ông hiệu hô bài trong ban tổ chức. Đó là những người có ngôn ngữ trôi chảy, ăn nói có duyên, cách pha trò dí dỏm và nhất là tài ứng biến xuất khẩu thành thơ, xuôi tai, luôn vần, hợp cảnh. Mỗi hội thường có  vài ba ông hiệu thay phiên nhau. Ông hiệu thuộc nhiều bài thai thì lời hò phong phú, đa dạng, tạo nhiều tình huống lôi cuốn người chơi. Đôi khi chỉ một câu hò thai, người chơi bài cứ ngỡ con bài trên tay mình tới. Nhưng không! Lại là con bài khác.
Còn duyên mua thị bán hồng
Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ
Gặm xơ hết lại gặm cùi
Dành riêng mớ hột để lùi cho con
Câu thai này  hiệu có thể hò cho con xơ, con 6 hột, con 8 hột, con 9 hột (gối). Gàn hơn có hiệu liều lĩnh bắt vào cả những con bài hột (pho sách), vì trong câu hò có tiếng mớ hột.
Có những bài thai dài cho một con bài, nhưng khi thích chí hiệu hò cả bài, khi mệt hiệu chỉ hò vài câu, thậm chí chỉ một câu như bài thai con bạch tuyết:
Hoa phi đào phi cúc
Sắc phi lục phi hồng
Ong bay qua muốn đậu, bướm lượn vòng  muốn bu
Bốn mùa đông hạ xuân thu
Khi búp khi nở khi xù khi tươi
Chúa xuân ngó thấy mỉm cười
Sắc hay vương vấn mấy người tài danh
Có bông, có cuống, có cành
Ở trong có nụ, bốn vành có tua
Nhà dân cho chí nhà vua
Ai ai có của cũng mua để dành
Tử tôn do thử nhi sanh
Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi.
Có khi một con bài có nhiều thai, tùy cảnh, hiệu hò những thai thích hợp. Như bài thai con nghèo:
-Chắp tay chẳng với tới kèo
Cha mẹ anh nghèo chẳng cưới được em
-Cây khô tưới nước cũng khô
Phận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo
-Buồn từ trong dạ buồn ra
Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo.
Những thai chỉ để hò một con bài ít hấp dẫn vì người chơi nhiều, khi nghe vài tiếng đầu đã đóan ra. Cái hay của ông hiệu là có những câu hò mới hóc búa, hay những ứng khẩu dí dỏm, đa nghĩa để các tay bài suy nghĩ. Như bài hò con học trò:
Đi đâu đeo xiểng mang hài
Cử nhân không đặng, tú tài chẳng qua
Bài hò con tứ cẳng:
Môt hai bậu chối rằng không
Dấu chân ai đứng bờ sông hai người.
(Hai người thì mới có bốn cẳng. Có người lại đóan con trường hai)
Làng tôi có ông hiệu Kiểm Đài là  thành công hơn cả. Tài của ông không những chỉ thuộc nhiều câu hò bài chòi, câu thai lá bài có sẵn. Những lúc cao hứng ông xuất những câu hò hóm hỉnh ứng với tình hình diễn ra ở  ván bài, chọc ghẹo những phụ nữ xinh đẹp, nhất là hạng quá lứa chưa chồng hay góa chồng; hoặc lấy các vụ việc xảy ra trong thôn đưa vào câu hò thai với những biến tấu đa nghĩa dí dỏm.
Năm ấy lụt sớm, lúa gặt về bị bùn non bám nhiều vào hạt, phơi phóng vất vả, bụi bặm. Bà vợ hay than phiền, ông đã có hai câu chọc cười xoa dịu vợ. Ngày hội bài chòi, có o con gái đẹp chưa chồng trong làng vào chơi bài chòi. O là nhân vật so sánh trong câu thơ của ông. Ông đã ứng khẩu tiếp thêm hai câu thành bài hò thai bốn câu giới thiệu con bài ông vừa bốc:
Mạ mi ơi đừng có than  lúa lắm bụi, nhiều bùn
Phơi khô quạt sạch  đẹp như o Lùn nhà bác  trùm Liên
Đừng nhìn láu liến xỏ xiên
Mà  lộn con xe sáu bánh với con sáu tiền o ơi.
Kết quả hiệu công bố là con 6 tiền nhưng câu cuối ông kéo dài, nên có người giữ con xe đã một phen mừng hụt con bài của mình. Ông còn dùng cụm từ  láu liến  xỏ xiên để ghẹo o Lùn đang chơi bài chòi. Cả hội bài có một trận cười dòn dã.
Làng tôi có hai món ăn dân dã rất ngon là củ sắn trồng ở đất nhà chùa và củ nưa trồng ở đất ruộng phủ. Trong làng đã có câu hò ca ngợi: Bao giờ thống chế, lãnh binh/ Sắn chùa nưa phủ nghĩa mình đừng quên.
 Vừa lúc có mấy đôi trai gái thành phố về làng ăn Tết, ghé thăm chơi hội bài chòi. Họ đứng ở góc sân đình nhìn vào. Ông tiếp thêm hai câu thành bài thai bốn câu cho con tám tiền vừa bốc trúng:
Bao giờ thống chế, lãnh binh
Sắn chùa nưa phủ nghĩa mình đừng quên
Trai tài gái sắc khắp miền
Nghe con tiền tám thì liền ghé chơi
Mấy cô cậu được gãi đúng thói kiêu hãnh, nán lại chờ hội bài mới, ngồi vào chòi thử vận đầu xuân
Quê tôi là vùng sông nước, người dân có nghề phụ đánh cá ban đêm để cải thiện. Cách đánh cá dễ nhất là đặt lờ. Ngày ấy mới đình chiến, phong trào bình dân học vụ  chống nạn  mù chữ được phát động rầm rộ. Dân làng học mấy chữ cái tờ, mờ, cờ, rờ, lờ… nảy sinh nhiều chuyện cười dí dỏm. Có ông cán bộ phụ trách bình dân học vụ xã vào chơi bài chòi. Ông này hay đi đêm, nhiều tai tiếng, dân không ưa mấy, nhưng ông cũng là tay đặt lờ có hạng. Thai ông hiệu hô con bài vừa bốc như sau:
Bà con đừng nghĩ ông già
Ông còn kham nổi bốn, ba cái lờ
Săm se chỉ  một con cờ
Có hai bánh bự bây chừ đang ở tay ai?
Mới hò câu đầu, các tay bài đóan là con bài hình người nào đó trong pho vạn (ông già). Qua câu thứ hai, người chơi nghĩ là con liễu, bạch tuyết (cái lờ). Câu thứ ba “con cờ” người chơi lại nghĩ chắc chắn là con nọc đượng. Nhưng khi hết câu cuối, ông trình con trường hai (hai bánh bự) thì ai cũng phải khen ông hò hay và ứng biến giỏi. Câu hò thai tự biên tự diễn của ông sau đó trở thành chuyện tiếu lâm của các lớp bình dân học vụ trong thôn.
Bài chòi nay đã mai một. Ngày Tết, ngày hội thường tổ chức diễn xướng sân khấu hóa nhiều lọai hình trò chơi mới, chưa bắt được nhịp tâm tình người dân nông thôn, nhất là lớp người lớn tuổi. Nông thôn nay cũng đã đổi khác. Cuộc sống cư dân nông nghiệp gắn bó con trâu cái cày  với nhiều lễ hội cầu mùa, tạ ơn …dần dần bị thay thế. Đường thôn, sân đình điện đèn thắp sáng mỗi dịp vào xuân. Tiếng nhạc trẻ xập xình trong quán hàng, trong lễ hội. Mấy chục năm nay, làng tôi không mở được hội bài chòi. Trai tráng quay vào  xập xám, tiến lên… nhiều hơn ngồi xoa bài tới. Tôi nhớ đến những ông hiệu như ông Kiểm Đài và những người mê ngồi bài chòi ngày trước mà cám cảnh câu thơ của Vũ Đình Liên: “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ”.
3. ĐÁNH BÀI THAI
  Tôi thiết nghĩ cần phân biệt thú chơi đánh bài thai và các câu thai hò trong các ván bài chòi để trình làng con bài mới ra, là khác nhau.
Đánh bài thai tôi đề cập trong bài viết sau đây  là  một lọai chơi cờ bạc như  bài vụ,  xóc nhất lục (xúc xắc), sau này có thêm bầu cua, tài xỉu thường thấy trong những ngày Tết ở xó chợ, góc đình. Người chủ cái hò bài thai mượn bộ bài tới làm phương tiện tổ chức cờ bạc như người ta dùng con vụ, con xúc xắc, con bầu cua mà thôi.
Cũng  như người làm cái bài vụ, bầu cua, nhất lục, người hò bài thai chọn một chỗ vừa ý trong sân đình, cổng chùa để trải ra một tấm vải dán hình nhiều con bài của bộ bài tới làm nơi mở sòng. Số con bài  chọn để hò thai cho người đặt thường là 18. Có người chọn cả 20-25 con. Nếu bộ bài chọn 18 con thì khi người chơi đóan trúng, chủ thai chung tiền gấp 12 lần tiền đặt. Nếu chọn nhiều con hơn, thì chung tiền cũng gấp cao hơn, nhưng tính lại nếu người chơi đặt cược hết các con bài, thai ra trúng chỉ 1 con, tiền chung thu về chỉ được chừng 2/3 số tiền đặt cược.
Ngày khai trương, chủ thai trải tấm vải dán hình các con bài cùng cặp chén dĩa, bộ bài còn mới dưới  góc cổng chùa có bóng cây sanh tỏa mát. Bà lễ mễ bày ra bình bông, mâm quả, khay trầu, cút rượu lên hương cầu khấn. Sau vài lần rót rượu vội vàng, hương chưa cháy đến nửa cây, người đi lễ sớm đã tấp nập, chủ thai vái tạ, thu dọn lễ vật đặt hết lên gốc cây sanh, nơi đó đã có vô số bình vôi bể, ông táo đất nứt rạn ... người dân trong làng mới tống tiễn ngày ông táo về trời.
Trò chơi bắt đầu. Tiếng hò được cất lên, bà chủ cái đặt xuống tấm vải làm sòng bài chiếc dĩa có cái chén úp kín con bài. Mấy người sà vào, ngồi chồm hổm quay quanh, lắng nghe lời thai, ngẫm nghĩ, bàn bạc với nhau tìm con bài cần đánh. 
Sáng sớm đầu xuân, ai cũng cố tạo cho mình tâm trạng thỏai mái, vui vẻ. Vài đồng tiền mới đặt xuống gọn gàng trên những con bài. Chủ cái thấy vừa ăn, mau mắn khui bài. Các bài hò nhẹ nhàng,  con bài cái  gần gũi câu hò thai dễ có người trúng. Khi người chơi chen đầy kín chỗ sòng bài, chủ cái thay đổi những bài hò dài, hiểm hóc, đánh đố hơn  để có nhiều chi tiết, làm cho người chơi liên hệ đến nhiều con bài, khó chọn ra được con bài trúng. Đôi khi người hò sử dụng câu thai bài chòi, sửa đổi vài từ kết hợp thành một bài hò thai, làm người đánh không biết đâu mà lần. Thế mà, khi khui bài, chủ cái còn có thể giải thích nhiều cách khiên cưỡng, tùy tiện để ra con bài cái. Cho nên, bài hò thai chỉ là cho có. Cái cần là trong 18 con bài, người chơi phải đóan được con bài chủ cái dấu trong chén là con bài gì.
Trời gần đứng bóng, người chơi khá đông, sau mấy câu hò đã khá dài, chủ cái lấy một câu hát trong dân ca kháng chiến phổ biến ở quê tôi trong thời còn chíên tranh để kết thúc bài hò:
Đèo Tư Hiền băng qua cầu Đại Hải
Đây con đường gập ghềnh, em gắng mà băng
Em đi mau kẻo trời tối không trăng
Khéo mà quàng dây vấp đá,  đó lại trách rằng anh đây không dặn dò.
Người chơi nghĩ rằng hò thai nhiều bài nhưng bài này hơi lạ, đưa vào sau cùng thì còn bài dấu phải tìm trong đọan hò này. Quàng dây là con tám dây, do dày dây là con dày, Tư (bốn) hiền, đi ( bằng chân): con tứ cẳng, chàng vẽ vời cho nàng như dạy học trò là con thầy, con trò. Trước đây đã có người hò thai bài này ngụy biện cho khui ra con ầm rồi giải “Vấp đá ngã té cái ầm. Là con ầm”. Bây giờ, khui bài ra, những người chơi đều thua cả. Chủ  cái chìa ra con ngủ rồi bảo:  “Trời tối không trăng, buồn ngủ  mới  quàng dây, vấp đá”. Đúng là kiểu giải thích chỉ có trong đánh bài thai!
Cũng thai hò con bạch tuyết trong bài chòi, trong bài thai, thêm bớt vài ý, chủ cái có thể đưa ra nhiều cách giải thích cho con bài cái: Con trò, con thầy, thái tử (người tài danh), con gióng ( bốn vành có tua), con nghèo, con dày, con sưa, con 6 hột, con 8 dây, con gối...( ở trong có hột), con liễu (không phải đào, không phải cúc thì là liễu), con ầm, con voi (Sắc không lục, không hồng thì đỏ như ầm, thì đen như voi)...và nhiều, nhiều nữa.
Bài thai, bài vụ, xóc xúc xắc, bầu cua căn bản là giống nhau trong cách chơi. Người chơi phải đóan cho được kết quả trong chén để chọn con bài đặt cựơc. Nhưng trong bài vụ, xóc xúc xắc, bầu cua nhà cái không biết  trước được kết quả ván bài. Khi dỡ chén ra, kết quả như thế nào, chủ cái phải chung cho người đặt trúng theo lệ đã giao. Hò bài thai có khác. Khi để con bài cái vào chén dĩa để hò, người chủ cái đã biết trước. Vì thế, nếu cân bằng trên ván thua nhiều, chủ cái chần chừ không muốn khui chén, dù khách chơi thúc giục nhiều lần. Gặp trường hợp ấy, khách chơi đóan biết trong ván đã có người trúng, càng xuống thêm tiền. Chủ cái chỉ còn nước chạy làng. Một cảnh xâu xé, chụp giựt xảy ra làm nát tan cả  hội bài thai. Đôi người mất tiền, nóng tính còn hành hung người chủ cái hò bài, bắt đền tiền thua bạc.
Cảnh ấy diễn ra ở sòng bài thai làng tôi năm ấy vào sáng ngày thứ ba đầu xuân. Hai ngày trước, chủ thai kiếm được chút ít . Mở cái ngày hôm ấy gặp xui, từ sáng, nhiều người trúng quá. Ván này, chủ cái xem qua tiền người thua trên sòng không đủ chung con bài trúng. Chủ sòng bài thai nán lại lâu hơn thì người đặt tiền xuống càng nhiều. Cuối cùng Mụ Thơm (Tên chủ cái bài thai) xin làng đi uống nước. Khách chơi không cho mụ ra, thế là có cảnh tranh nhau, ẩu đả giựt tiền trên sòng. Khổ cho mụ!  Nhưng đó cũng là cách tháo chạy an tòan nhất.
Mụ Thơm là người hò bài thai hay nhất làng tôi, dân làng gọi tên mụ là Thơm hò. Tôi không biết mụ có chồng không nhưng chỉ thấy mụ có 2 đứa con trai súyt sóat tuổi ngang với tôi. Mụ làm nghề bài thai, bài vụ kiếm tiền nuôi con. Ngòai những ngày lễ Tết, hội hè, mụ hò bài thai hay vụ bài vụ mỗi chiều ở chợ quê. Những tháng mùa màng, ít người chơi, mụ qua Dinh kiếm sống. Khi ấy, hai thằng con trai đem gởi nhờ bà ngoại, ở cùng xóm với tôi. Đôi khi mấy tháng không thấy mụ về. Lần cuối  tôi thấy mụ ở làng là dịp mụ dẫn về một người đàn ông lạ, ra mắt gia đình. Mụ đi biệt tăm từ đó, bỏ lại hai đứa con cho ngọai nuôi.
Yên ổn chừng dăm năm, cuộc sống hồi sinh chưa kịp bền gốc, bén rễ thì chiến tranh lại đổ về làng tôi lần nữa. Trai tráng và dân chúng phần vào lính, phần bỏ làng ra đi tránh bom đạn. Ngày Tết không còn bài chòi, đu chùa, bài vụ, bài thai...Sân đình, sân chùa cỏ cao ngập cả lối vào. Hai cây sanh và hàng cây gạo, cây bàng, mù u trước đình, trước chùa um tùm cây lá, tỏa rễ phụ chắn cả lối đi. Sau một trận càn qui mô có cả đại pháo, máy bay yểm trợ, làng tôi thành một bãi trắng đúng như kế họach “bạch hóa” của chiến dịch càn quét. Một thời gian khá dài, dân làng không còn một ai còn sống ở quê.
Hai người con của mụ Thơm hò vào lính. Sau chiến tranh, người người lần lượt trở về quê. Một người con còn lại của mụ, sau mấy tháng học tập cải tạo trở về làng. Cuộc sống lại lần nữa được hồi sinh nhưng do con người thiển cận, hòan cảnh khó khăn, sinh hoạt không lấy lại được dấu vết xưa. Sân đình, sân chùa trở thành sân phơi hợp tác xã. Nhà chùa, đình làng dùng như kho chứa. Tiếng hò dân dã tắc tị hẳn trong nhịp sống làng quê.
Mấy năm sau hòa bình, mụ Thơm hò, một thân một mình về sống với con ở làng. Mụ đã già lắm, mắt không còn thấy người đối diện. Những lúc ngồi một mình, mụ thường thầm thì những câu hò bài thai nho nhỏ. Tôi gặp mụ trong một lần về quê ăn Tết, qua vài câu chuyện thăm hỏi, mụ hò cho tôi nghe những bài mụ còn nhớ. Không có dĩa bài, không có tấm vải trải rộng mấy con bài làm sòng, mụ vẫn hò say sưa. Hai tay mụ thỉnh thỏang nắm úp lấy nhau, che kín dưới vạt áo trước bụng Tôi nhớ lại động tác mụ cầm con bài đang giú vào vạt áo dài trước bụng năm nào mỗi lần cho một con bài vào dĩa cái trình ra sòng bài thai. Nghề hò bài thai không còn nuôi được mụ qua bát cơm nhưng chắc tâm hồn mụ còn sống được có lẽ là những câu bài thai ấy.
Thú chơi Tết dân gian ở nông thôn ngày trước không chỉ có các món ăn thua cờ bạc. Ngày Tết ở nông thôn  thể hiện nhiều nét văn hóa cổ truyền đậm đà hương vị ngày xuân. Phải về nông thôn mới  sống trọn vẹn không khí của Tết Trị-Thiên. Dù đi làm ăn đâu xa, người Trị-Thiên chỉ cầu mong mỗi dịp xuân về được về quê hòa mình trong không khí trang nghiêm ngày Tết. Đó là tâm lý chung trong nếp văn hóa Việt Nam ngàn đời.
                                                                                      Ugno.Vn

READ MORE - THÚ CHƠI DÂN GIAN TẾT TRỊ THIÊN - Tạp văn của Ugno.Vn