|
Tác giả Nguyễn Đức Tùng |
NHÀ
Nguyễn
Đức Tùng
Một người
hàng xóm mới dọn vào. Đó là một người đàn ông da
trắng, cao, rắn chắc, khoảng ngoài bốn mươi nhưng tóc
đã bạc, hàm râu không cạo lốm đốm. Trò chuyện làm
quen qua mấy bụi sơn trà, anh hỏi: đằng ấy đã ở đây
bao lâu? Khi biết tôi ở một chỗ gần mười năm, anh
tròn mắt ngạc nhiên: lâu thế kia à? Trong cuộc sống
nhiều thay đổi hiện nay, nhất là ở các thành phố lớn,
người ta ít khi nào cư ngụ lâu một nơi: mười năm đối
với nhiều người là lâu lắm.
Mỗi khi
về nước, tôi thường đi dọc đường Trương Minh Giảng,
ghé đại học Vạn Hạnh, tức đại học Sư Phạm ngày
nay, trước tôi có một người bạn gái học ở đó, hay
đi trên con đường trước bệnh viện Biên Hoà, gần căn
nhà quen thuộc của nàng, thấy mỗi năm hay vài năm các
tên đường, tên hẻm, lại bị đổi một lần. Đổi tên
xoành xoạch nhiều như thế thì trẻ em lớn lên làm sao
có ký ức bền vững? Thanh niên làm sao có tuổi thơ thơ
mộng? Chúng yêu nước ra sao?
Có lẽ
một phần vì vậy mặc dù nhu cầu gia đình mỗi ngày một
lớn, khi nhiều người cùng lúc đến thăm không có phòng
riêng để ngủ, phải nằm lăn trên sàn nhà, mà bạn bè
của tôi thì đông, tôi vẫn ngoan cố không chịu đổi
nhà. Bạn có bao giờ nghĩ đến việc lập một danh sách
những ngôi nhà mà mình đã từng sống qua?
Bảy năm
đầu tiên của đời mình, ngôi nhà của cha mẹ tôi là
nhà tranh vách đất sau hòa bình lập lại, chia đôi đất
nước. Sau đó chúng tôi chuyển qua nhà mới khang trang
hơn, cha tôi xây mất ba năm ở trên khu vườn rộng mới
mua gần đó. Đổi nhà nhưng vườn vẫn giữ, tôi thường
chạy qua chạy lại để hái trái cây, mùa hè suốt ngày
ngồi vắt vẻo trên những cành ổi la đà trong khu vườn
cũ thuở trời đất thanh bình đầu những năm sáu mươi.
Vì vậy mà chẳng có nhiều thay đổi. Rồi tôi đi xa, ở
trọ nơi này nơi khác. Tôi đã từng đếm và nhớ được
mười hai địa chỉ khác nhau ở Việt Nam và mười địa
chỉ rải rác trong tám thành phố Canada mà tôi đã từng
ở, trước khi mua một ngôi nhà nhỏ bên bờ Ngũ Đại
Hồ, gần khu vực một ngàn hòn đảo. Rồi lại bán nhà,
sau một cuộc tình tan vỡ, cay đắng nhưng không bất ngờ,
rồi lại mua nhà, rồi lại bán nhà, sau một cuộc tình
tan vỡ khác, bất ngờ nhưng không cay đắng, rồi lại
mua nhà. Giữa hai lần mua và bán là hai lần thuê nhà hay
thuê phòng tạm trong các chung cư.
Những
căn phòng và ngôi nhà tôi thuê có thể gọi là nhà được
chăng? Năm 1996, suốt nửa năm trời tôi đã từng sống
trong căn lều của người đi săn, cũng gọi là cabin mùa
hè, bên bờ hồ, gần chân núi. Ở đó tôi đã gặp một
con gấu hiện ra ngay trước mặt, sau một khúc quanh, khi
chạy bộ trong rừng. Buổi sáng thức dậy trời mù sương,
một con hươu nhỏ kê đầu lên cửa sổ tò mò nhìn vào
mặt tôi đang ngủ. Mặt nước ngoài xa xanh biếc lăn tăn
gợn sóng. Những ngày vô cùng buồn, những ngày vô cùng
vui, những ngày muốn tự tử, hay muốn thay đổi thế
giới, những ngày tự do với những ý tưởng trong suốt
như pha lê, như ánh phản chiếu của những cây thông dưới
đáy hồ lặng lẽ, tưởng vẫn còn thơm mùi trái thông
tươi. Chúng đứng im lìm như những ý tưởng minh triết
đã hoá thành cây cối.
Sáu
tháng sau khi người hàng xóm của tôi mới dọn vào, anh
ta lại dọn đi cùng với vợ và đứa con gái ba tuổi tên
Natasha, một cái tên rất Nga, mặc dù cha mẹ không phải
là người Nga. Tôi định bụng sẽ hỏi vì sao họ đặt
cái tên đó nhưng chưa có dịp. Một hôm tôi đang đứng
trong vườn sau nhìn qua nhà hàng xóm, vắng vẻ chưa có
người thuê mới, ngẩn ngơ nhớ người hàng xóm nói
giọng Pháp gốc Quebec vui tính mới quen đã vội chia tay,
nhớ con bé Natasha nhí nhảnh, tóc hung đỏ, có cái nốt
ruồi rất đậm trên má, hay trò chuyện với tôi qua hàng
rào, thì một người khách lạ đến đẩy cổng xin phép
vào vườn ngồi một lát. Đó là một ông già bảy mươi
hay tám mươi tuổi, cao, ốm yếu, chòm râu bạc lưa thưa.
Tôi ngạc
nhiên hỏi chuyện rồi miễn cưỡng mời ông vào. Ở cuối
vườn sau nhà tôi có một cây sồi nhiều tuổi, cao vút
tỏa bóng mát rộng lớn. Buổi sáng tinh mơ, một loài
chim biết hót, lông vàng, có lẽ là họa mi, thường về
đậu trên ngọn cao, hót từng tiếng gióng đôi suốt
nhiều giờ, mùa hè này đến mùa hè khác. Thấp hơn, ở
giữa chừng, một con chim bách thanh chuyên nhái giọng các
loài chim khác. Có hôm nó nhái được cả tiếng dế kêu.
Gần gốc cây, dưới thấp, đôi khi một con chim gõ kiến
thoăn thoắt mổ như người thợ tận tụy công việc. Ông
lão kể rằng, lúc lên mười hai tuổi chính tay ông đã
trồng cây sồi này. Nay vừa đúng sáu mươi năm. Nhà cũ
đã bị phá đi làm lại, đổi chủ nhiều lần, nhà mới
mọc lên trên nền cũ, cây cối và cảnh vật hoàn toàn
thay đổi, nhưng riêng cây sồi vẫn còn đây. Tôi cảm
động, rút lui, để ông ngồi một mình sau khi mang cho ông
ly nước trà nóng và một cái ghế nhỏ.
Suốt
buổi, từ cửa sổ phòng làm việc thỉnh thoảng tôi nhìn
ra, người đàn ông vẫn ngồi trong bóng mờ cho đến khi
hoàng hôn chập choạng. Tôi không kịp hỏi hiện nay ông
ở đâu, gia đình con cái ra sao, chỉ qua câu chuyện trước
đó biết rằng ông rời khỏi căn nhà mà tôi đang ở gần
năm mươi năm về trước lúc tình nguyện nhập ngũ và
ngay sau đó được gửi qua châu Âu tham gia trận đánh nổi
tiếng ở Normandie. Và đây là lần đầu tiên ông trở
lại khu vườn cũ của mình. Tôi đi xuống nhà bếp pha ấm
trà mới, sắp ra dĩa một ít bánh ngọt, định bụng mời
ông vào nhà nghỉ ngơi một lát. Khi tôi ra vườn, thì
người khách lạ đã đi mất. Tôi nhìn quanh, trên chiếc
ghế ông ngồi chỉ còn lại chiếc tách đã uống cạn và
một cuốn sách không có bìa, kiểu bỏ túi, giấy vàng
cũ. Đó là một cuốn tiểu thuyết tôi không biết nhan
đề, không rõ tác giả là ai, vì mất cả bìa trước lẫn
bìa sau. Tôi cũng không biết ông tình cờ bỏ lại hay cố
tình. Cuốn sách ấy ông mua trong một hiệu sách cũ như
tôi vẫn thường làm, hay nhặt được dọc đường, chẳng
có giá trị gì cả mà nhiều khi chúng ta tiện tay thì cầm
lên rồi bỏ lại? Hay đó là một cuốn sách quan trọng
đối với cuộc đời một con người mà ông quyết định
để lại bên thân cây sồi già như lời từ biệt sau
cùng đối với người bạn cũ?
Một kỷ
vật, một món nợ ân tình trầm trọng mà sau bao nhiêu
năm đeo đẳng đến nay ông không còn cần phải mang theo
nữa?
Trên
trang thứ hai, ở dưới hàng chữ đề tên nhà xuất bản,
có một dòng chữ bằng tay mực đã nhoè nhưng vẫn còn
đọc được khá rõ ràng: cho Mary Howe thân yêu, mùa Giáng
Sinh 1939.
Nguyễn Đức
Tùng