|
Nhà văn Nguyễn Đặng Mừng |
Mộ Gió
Truyện ngắn
Nguyễn Đặng Mừng
Nhài ở với bà ngoại. Ba Nhài tập kết
ra Bắc, mẹ Nhài đi lấy chồng. Tôi lại mồ côi mẹ từ năm hai tuổi. Có khi ba tôi
đi làm cả tuần không về, gửi tôi cho ngoại Nhài. Ban ngày tôi và Nhài chơi đồ
hàng, đóng vai chồng vợ, nằm ôm nhau đợi trời sáng. Nhài giả tiếng gà gáy
oo...o o..., bỏ cát vào miễng sành làm cơm, hai đứa chu miệng vờ ăn chót chét,
cười khúc khích. Có khi Nhài đóng vai
làm mẹ, tôi làm con. Nhài còn trật áo ra giả đò cho bú, tôi xấu hổ bỏ chạy. Tôi
năm tuổi, nhỏ hơn Nhài một tuổi. Thấy Nhài đi học, tôi khóc. Ba tôi phải để tôi
theo Nhài cho có bạn, còn dặn: “Từ nay con phải gọi chị Nhài. Chị Nhài nhớ chăm
sóc em, học giỏi sẽ có thưởng.”
Từ làng tôi đến làng Hội phải qua
làng Đông, có ba đường đi song song. Tùy theo mùa, nam nắng người ta thường đi
đường hạ bạn cho mát. Mùa rét đi đường thượng bạn cho ấm. Mùa lụt lội lại phải
đi đường rú, sợ nhất là ngang qua miếu ông Dờn. Ngôi miếu cổ nằm khuất sau lùm
cây, tôi chưa một lần nhìn rõ. Mỗi lần ngang qua đó tụi nhỏ cắm đầu chạy không
dám nhìn vào miếu. Người ta đồn rằng đứa
nào nhìn vào miếu là bị lác mắt.
Mùa hè, ngày đầu tôi theo Nhài đi học
lớp mẫu giáo theo đường hạ bạn. Gió nam Lào thổi qua cánh đồng từ phía sau như
đẩy chúng tôi tới. Nhài bỏ tôi chạy lúc lội qua khe, lên bờ bên kia núp vào bụi rậm,
chờ đến lúc tôi mếu máo mới từ trong bụi nhảy ra hù một cái. Nhài cười vang nhe
răng sún, tôi cười gượng.
Trường là căn nhà xây cũ lợp ngói âm dương, gọi
là nhà tăng, là nơi để dọn cổ những khi cúng làng đông người, trong đình không
đủ chỗ. Ba tôi nhận thầu sửa lại đình làng Hội sau mấy năm hòa bình.
Thầy Nga có tật gù lưng, trước đây là
giáo viên bình dân học vụ trong thời kháng chiến chống Pháp. Trình độ thầy cũng
chỉ mới tương đương bằng tiểu học thời đó. Học trò cả mấy làng gom lại được hơn
chục em. Học trò chưa ai biết chữ, tuổi tác cũng chênh lệch. Trò lớn nhất hơn
mười tuổi, nhỏ nhất là tôi.
Ngày đầu đến lớp chẳng có sách vở gì,
trò nào cũng thế. Mỗi đứa có một tấm bảng đen lớn hơn tập vở một chút. Cha tôi
lấy cho tôi một viên ngói liệt và xin thầy cục phấn, xong ông đi làm việc với
thợ thuyền. Tôi ngồi bên Nhài không viết được chữ o, Nhài bắt tay tôi khoanh thật
chậm, thành một chữ o méo mó trên tấm ngói, trong lúc chữ o tự Nhài viết trên bảng
của mình tròn như quả trứng gà. Giờ ra chơi, Nhài bắt tôi ngồi trong lớp viết lại
nhiều lần chữ o mà vẫn méo, Nhài cóc đầu, tôi nổi cáu ném vỡ tan viên ngói, bỏ
chạy về nhà.
Hôm sau cha tôi mua về một tấm bảng mới
rất đẹp. Cha gọi tôi vào bảo:
- Sang năm con lên năm (lớp một) rồi,
rán học một năm để vào lớp năm, phải biết đọc biết viết. Kể từ hôm nay, con bỏ
học một buổi là ba đánh năm roi, nghe chưa.
Ba đèo tôi trên xe đạp đến lớp. Ba
nói nhỏ to gì với thầy rồi lại xếp tôi ngồi gần Nhài. Nhài không thèm nhìn tôi,
cắm cúi viết chữ a thật đẹp.Thầy đến gần tôi bảo: “Coi con gái viết chữ đẹp
chưa, con trai mà thua con gái là xấu hổ lắm.” Tôi bặm môi, nghe mặt mình nóng
lên. Tay phải ghì cục phấn chạy chậm từ từ trên bảng theo lời động viên của thầy.
Sự tự ái và lời động viên cho tôi một chữ a đẹp không kém chữ của Nhài. Thầy
nói lớn:
-Hôm nay trò Hoan viết chữ đẹp nhất lớp,
thầy thưởng hai viên phấn.
Cả lớp nhìn về phía tôi vỗ tay, riêng
Nhài ngồi im nhìn xuống chữ a của mình. Tôi xấu hổ vì chữ a của Nhài đẹp hơn.
Trên đường về, tôi làm lành với Nhài:
-Chữ Nhài đẹp nhất lớp.
-Người ta có Ba, chữ mới đẹp, Nhài
không có Ba, chữ đẹp cũng thành xấu.
Cả tuần Nhài không cười đùa với tôi
như trước.
Qua hết mùa hè, chúng tôi đã viết được
hai mươi bốn chữ cái và ghép vần, chữ đứa nào cũng đẹp. Thầy cũng không còn
khen chữ ai đẹp hơn ai, tôi và Nhài cũng không khi nào so sánh.
Nước lụt ngập hết đường bạn, chúng
tôi phải đi học đường rú. Trước khi qua miếu ông Dờn, Nhài bảo: “Đưa bảng đây
chị cầm cho, chị hô một.. hai… ba là chạy nghe chưa. Không được nhìn vào miếu,
đui mắt ráng chịu.” Vậy là Nhài hô một…hai…ba,
chúng tôi chạy thật nhanh. Nhài chạy trước, tôi chạy sau. Nhài vấp chân té ngã
trên cát, hai cái bảng văng khỏi tay. Tôi sợ quá, chạy luôn không quay lại. Mệt
và sợ, tôi ngồi xuống bên bờ cỏ. Khuất sau lùm cây nghe tiếng kêu thất thanh của
Nhài: “Hoan ơi, chờ với, chị chết mất.” Nghe tiếng kêu thống thiết của Nhài, tự nhiên tôi can đảm lên, đi ngược về hướng
miếu. Nhài vừa đi liêu xiêu vừa khóc. Tôi bảo: “Chị đứng đó, em chạy lui lấy bảng
cho.” Tôi trở lại lấy hai tấm bảng mà
không hề nghe sợ sệt. Hai đứa theo đường rú đến trường. Những ngày sau tôi nói
với Nhài: “Từ nay mình đừng chạy nữa, cứ đi bình thường, hai tay nắm lại là
không sợ.” Từ đó chúng tôi cứ nhìn vào miếu mà không sợ lác mắt. Rồi đến một
ngày hai đứa tôi tò mò vào xem miếu thế nào: Đó là ngôi miếu rong rêu nằm khuất
dưới một bụi trâm bù, cũng bình thường như những ngôi miếu cổ trong làng. Chúng
tôi thường bẻ hoa sim vào cắm trên bệ thờ. Nhài lấy một bông sim kẹp lên tóc,
nghiêng ngiêng đầu hỏi “đẹp không”, tôi bảo đẹp. Có hôm ngồi hằng giờ
sau miếu ăn trái sim hoặc trái trâm bù,
lại cười vang vì miệng đứa nào cũng tím màu sim.
Một năm học không biết bao chuyện vui
buồn, khi nắng rát lúc mưa dầm, những ngày lạnh thấu xương, Nhài và tôi đi học
không bỏ buổi nào.
Vào lớp năm trường làng, chúng tôi lại
học chung lớp.Tháng nào Nhài cũng đứng nhất lớp, tôi lại lẹt đẹt hạng mười là
cao. Chúng tôi cứ cặp kè, ra chơi vô học khi nào cũng gần nhau. Tụi bạn hay hát
trêu: “Hai cấy dôn (vợ chồng) cốn dây, mua bánh dầy cho chắc (nhau) ăn…” hoặc:
“Vợ khôn chồng dại như bông hoa nhài cắm bãi phân trâu.”
Ngày tết năm đó, một ngày tết thật buồn.
Nhài qua nhà tôi chào ba và tôi để đi theo một người bà con lên vùng Cam Lộ.
Nhài bảo ngoại không đủ sức nuôi Nhài nữa, Nhài phải giúp việc cho người ta,
người ta hứa là sẽ cho Nhài đi học. Tôi và ngoại tiễn Nhài ra đến đầu cầu, hai
bà cháu cùng gạt nước mắt nhìn theo cái bóng nhỏ nhắn mặc bộ đồ màu đà, chiếc nón lá quàng sau lưng khuất vào rặng
tre cuối làng Đông.
Một năm rồi hai năm Nhài không về
thăm. Ngoại Nhài khăn gói đi tìm cháu về kể trong nước mắt: Nhài trốn đi đâu cả
năm rồi. Lại có người đồn rằng Nhài bị người bà con đánh lỡ tay chết rồi đem
chôn phi tang. Tôi khóc mấy ngày rồi thú tội với ngoại Nhài là đã từng vào miếu
ông Dờn. Ngoại Nhài làm một mâm xôi gà đội lên miếu ông Dờn cúng. Tôi theo bà lên miếu. Bà đặt mâm cổ
lên bệ thờ, thắp nhang khấn vái. Bà bảo tôi lạy bốn lạy và xin ngài cho Nhài
tai qua nạn khỏi.
Năm tôi học lớp ba, Ngoại Nhài mời thầy
pháp về làm lễ Chiêu hồn nhập mộ cho Nhài. Người ta đào một huyệt nhỏ, nhỏ như tuổi Nhài ngày ra
đi. Sau khi bỏ rễ cây dâu làm xương, chỉ
ngũ sắc làm gân, đất sét làm thịt, hình hài của Nhài được chú Dằng nắn như con
búp bê nhỏ xíu rồi cho vào tiểu sành. Ông thầy cúng đọc thần chú để gọi hồn
Nhài về. Chú Dằng, người cầm vía đầu quấn chiếc khăn điều, nốc một ly rượu, mặt
chú đỏ lên, đầu chú ngắc ngư lắc theo cây vía trong tay. Đột nhiên chú đứng dậy
chỉ ngay tôi rồi cầm tay kéo tôi chạy.
Tôi chạy theo chú, băng qua những ngôi mộ, vượt qua những bụi trâm bù.
Chân tôi đau điếng rớm máu vì vướng phải chồi cây. Đến gần miếu ông Dờn chú đi
chậm lại, rẽ bụi cây bước đến chính diện. Chú vái bốn vái rồi ra hiệu cho tôi lạy
bốn lạy. Chú không nói gì nhưng qua cử chỉ tôi biết chú bảo tôi phải tạ tội trước
ông Dờn. Xong chú lại cầm tay tôi chạy băng băng về lại huyệt mộ. Ông thầy cúng
vẫn ê a bài cúng chiêu hồn. Chú Dằng chỉ tôi quỳ xuống bên ông thầy, hai tay chắp
trước ngực. Xong chú nói giọng lơ lớ kiểu người cõi âm: “Hoan ơi, chị nhớ em lắm.
Hoan đốt cho chị một cuốn vở mới, một cây viết rồi rưới lên cho chị lọ mực tím,
chị thích màu tím. Bữa nay chị học lớp ba rồi. Chị tìm ra cha chị rồi. Chị có
cha rồi, không ai bắt nạt chị nữa, không ai chê chị viết chữ xấu nữa.” Tôi khóc
òa lên, không còn sợ vong linh Nhài nữa. Tôi tin Nhài đang nói với tôi qua lời
chú Dằng.
Đêm đó tôi mộng thấy Nhài mặc chiếc
áo trắng tinh, tay cầm cánh hoa nhài trắng muốt, thơm phức. Đầu Nhài có đính chiếc hoa sim nhìn tôi cười
nhe răng sún. Từ đó tôi hết bị ám ảnh về tội lỗi của mình. Miếu ông Dờn không
đáng sợ nữa mà gần gủi thân thiện với tuổi thơ tôi và Nhài.
Ba tôi kể: “Miếu ông Dờn hồi chống
Pháp, cạnh miếu là hầm bí mật của cán bộ. Mẹ con hay bới cơm cho cậu và cha
Nhài là du kích nên mẹ biết. Họ phao tin
như thế để khỏi lộ bí mật”. Nghe ba nói tôi lại tin rằng Nhài còn sống, không bị
ông Dờn bắt.
Tôi theo gia đình lên tỉnh học bậc
trung học. Mỗi lần về làng thế nào tôi cũng đi thắp nhang ở mộ Nhài. Ngoại Nhài
đã qua đời. Mộ hai bà cháu nằm gần nhau. Ít ai nhắc về chuyện của Nhài, riêng
tôi thì không sao quên được những ngày....
Những năm đầu bảy mươi, có lần tôi
nghe bà con bàn tán là Nhài không chết, Nhài được người cha tập kết trở về mang con theo ra Bắc, Nhài học giỏi và
được đi du học. Có người lại bảo Nhài chết trên đường vượt Trường Sơn vào Nam.
Năm mươi năm qua, có dịp về làng tôi lại đến bên mộ gió của Nhài thắp nhang,
lòng vẫn mong Nhài vẫn sống đâu đó, ở trần gian này.
23 tháng 5 năm 2008.
N.Đ.M.