Chế Cẩm Đình
TÂY DU KÝ (tt)
Phần cuối: ĐÔI BỜ SÔNG MEKONG
Mặt trời đánh thức tôi dậy lúc sáu giờ sáng bằng những giọt nắng tươi rót qua khung cửa sổ của phòng nghỉ ở khách sạn Lotus. Chỉ ngủ có bốn tiếng đồng hồ sau một hành trình khá dài, nên hơi mệt. Nhưng rồi lại tươi tỉnh khỏe khoắn ngay khi vừa đặt chân xuống phố.
Thành phố Cay Xỏn Phom Vi Hản lớn
thứ hai đất nước này, chỉ sau thủ đô Viêng Chăn, lấy
tên một lãnh tụ có bố là người Việt, mẹ người
Lào, từng học ở Hà Nội về và dẫn dắt cách mạng
Lào dành thắng lợi trước phái bảo hoàng. Tên cũ của
thành phố là Savanakhet, xuất phát từ Savanh Nakhone có
nghĩa là “thành phố thiên đường”, nằm ngay bên bờ
đông của dòng sông Mekong như hầu hết các thành phố
lớn khác của nước Lào.
Bầu trời trong xanh không một
chút gợn mây, tỏa xuống một thứ nắng vàng hươm như
mật, chỉ bên này dãy Trường Sơn mới có ánh nắng này,
tựa như ở Tây Nguyên bên mình. Phố xá ban mai còn ít
người qua lại, chỉ thấy hàng dãy xe hơi đời mới loại
bảy chỗ và bán tải đủ hiệu đủ màu đậu dọc theo
các con đường trước các ngôi biệt thự chờ chủ nhân
thức dậy. Vài chiếc xám lọ (xe 3 bánh) chở mấy em đầu
chỏm bận âu phục áo trắng quần xanh mực đến trường
tiểu học, các anh chị lớn hơn thì phi xe máy đầu trần,
vì luật giao thông Lào không bắt buộc đội mũ bảo hiểm
giống bên mình.
Người Pháp quy hoạch Sa Vẳn theo
mô hình đô thị ở châu Âu. Phố xá vuông vức như bàn
cờ, nhà cửa thấp tầng, chủ yếu là biệt thự mới
theo khuôn đất củ ngày trước để lại, trong vườn
ngập cây xanh nên ngoài phố nội ô ở đây hầu như
không trồng bất cứ một hàng cây nào mà cảm giác vẫn
rất mát mẻ, dù đang vào mùa khô. Tiếng Pháp vẫn còn
được sử dụng nhiều trên các biển hiệu hàng quán,
trường học và cả công sở như là một di sản thời
thuộc địa để lại. Tiếng Việt cũng có nhưng ít hơn,
chủ yếu ở bến xe và chợ, dùng song song với tiếng
Lào. Thỉnh thoảng gặp biển hiệu tiếng Hoa, ở các hàng
ăn hoặc chổ kinh doanh nữ trang, khiêm tốn hơn so với sự
có mặt đông đúc của họ nhưng âm thầm lặng lẽ làm
ăn trên xứ người.
Tôi đến thăm Wat Rattanlangsi trên
phố Phagnapui, một ngôi chùa Phật giáo Nam tông khá lớn
được xây cất từ năm 1951 với mô típ Hindu gần giống
với các ngôi chùa Khmer ở Miền Tây tôi đừng ghé thăm.
Tháp cổng uy nghiêm rộng lớn với bề mặt trang trí bằng
các đường diềm và hoa văn nhũ vàng điệp trùng đắp
nổi trên nền xanh ngọc bích ở thân trụ hoặc nền đỏ
của lan tô và tháp mái. Sân chùa rộng rãi được bao
quanh bởi các tòa tháp cả cũ lẫn mới, tất thảy đều
sơn son thếp vàng rất nổi bật. Chỗ này tượng rắn
thần Naga lè lưỡi trừ tà, chỗ kia tượng voi trắng
Airavata hiện thân tiền kiếp của đức Thích Ca Mâu Ni
nhập thế từ cõi trời Đâu Suất. Đây là những chú
ngựa Kantaka đứng xếp thành hàng ngang bên hông bảo điện
như đang chờ hộ pháp Mahali nhảy lên xung trận, hoặc có
khi đó là hóa thân của thần Hayagriva chờ chữa bệnh
cho dân nghèo. Nọ cặp ghe ngo trổ dáng thuồng luồng gác
hông chùa chờ mùa Bun Suanghua (tết đua ghe) để xuống
con nước Mè Nạm tranh tài. Thật là một không gian vừa
linh cẩn, vừa huyền diệu làm cho thần tâm người viếng
chùa quán tưởng đây chính là cõi Phật ở trần thế.
Vì không có nhiều thời gian nên tôi không vào chánh điện
và nhà hội Sala mà chỉ khấn Phật ở các tiểu điện.
Rồi bập bẹ đôi câu tiếng Lào với các chị các em đi
lễ chùa ban sớm xin phước lành và thắp hương cho người
thân quá cố được quàn tro trong các tháp cốt quanh chùa.
Thảy đều toát lên vẻ an nhiên tự tại trong cuộc sống
thanh bình và chậm rãi của người Lào, không một chút
xô bồ náo nhiệt như các quốc gia khác.
Ăn sáng món phở lai hủ tiếu của
ở quán ăn một gia đình người Huế lên mở xéo xéo
cổng chùa, rất hợp vị, mười ngàn kíp một tô - tức
khoảng hăm bảy ngàn bên mình, cũng rẻ nên khá đông
khách, cả Việt lẫn Lào, với một ông Tây, chắc người
Pháp. Ra một bưu cục nhỏ ở góc phố Sotthanou mua cái
sim 3G giá năm chục ngàn kíp thay vào điện thoại, thế
là online ầm ầm với Việt Nam ngay, vì còn là bao nhiêu
công việc phải giải quyết trên email với viber đầu
ngày với đồng nghiệp ở nhà.
Vì không có transit Thái (giấy
phép liên vận) nên tôi vơ lấy cây gậy tự sướng nhảy
xe bus chỉ với 50 bạt (chưa đến 38 ngàn tiền Việt) để
qua Mukdahan, thành phố phía đông vùng Isan ngay bên dòng
Mekong. Mười năm trước tôi cũng từng qua đó, bằng bến
phà ngay cuối phố Khuanpasa bên này, qua bên kia là đầu
đường Pracha Samakkhi của thành phố “hòn ngọc mắt
thiên nga” theo Thái ngữ. Tức là hai thành phố cặp sát
ĐÔI BỜ SÔNG MEKONG như tựa của phần cuối bài viết
này. Thì hôm nay cầu Hữu Nghị II đã nối liền hai bên,
chỉ mươi phút hành trình với thủ tục xuất nhập cảnh
qua hai cửa khẩu hai đầu cầu chừng nữa tiếng là xe
bus với trả khách tại bến xe trung tâm Mukdahan. Loay hoay
hỏi khon cáp - bác tài “thào đạy môông lốt pay Sa Vẳn
– mấy giờ xe này về lại Sa Vẳn?” thì bác trả lời
“hai rưỡi!”, trời! Té ra bác là Việt kiều, ngó mình
ngơ ngơ như vịt nên biết chắc là bên Việt qua, mới
dặn dò thêm con đi đâu thì đi, cứ nói người ta chở
về “Sa tha ni lốt – bến xe” là được.
Vào một quán cà phê kiểu Thái
ngay trong bến xe gọi cốc Cappuccino cũng 50 bạt nhâm nhi
ngắm người qua lại, thấy cuộc sống nơi đây cũng
thanh thản chừng như ở Lào, chứ không khác nhau là mấy.
Người mua vé đi Chiềng Mạy, kẻ đứng trước quầy nhà
xe đi Băng Cốc hay Udon, hoặc đi Nakhone đủ cả, không
thấy một chút gấp gáp nào hiện lên trên khuôn mặt
nào, mà là những ánh nhìn thân thiện đến dễ chịu khi
trao đổi cùng nhau. Ngay giữa nhà chờ người ta đặt một
bục gỗ lớn để quàn di ảnh của Đức vua đáng kính
Bhumibol Adulyadej vừa mất hồi tháng mười năm nay, với
nhiều vòng hoa trắng trên nền vải đen kèm những dãi
ruy băng trang trí rất trang trọng. Thi thoảng có hành
khách đến thi ân với ngài, cúi đầu chắp tay mặc niệm
một cách hết sức kính cẩn trước vọng thân của Đức
vua.
Bước chân qua dãy xe khách loại
mười sáu chỗ, tôi bất chợt lặng người khi trước
táp lô xe sau tấm kính chắn gió là một nãi chuối cau,
bên trên là một bó hoa thọ màu vàng – tục cúng ngày
sóc vọng bằng hoa quả bên quê nhà với ở đây là một,
ôi chao!
Vào một quầy tạp hóa xin tham
khảo mấy món hàng tiêu dùng theo công việc, gặp chị
Lệt với chị Polatthai cũng là Việt kiều thế hệ thứ
ba. Ông ngoại người Điện Biên, bà ngoại người Sơn
La, cả hai qua Lào lập nghiệp từ hồi năm bốn mấy, gặp
nhau và nên vợ nên chồng ở Sê Nô rồi qua Thái ngụ cư
sinh con đẻ cháu nơi đây. Hỏi thăm con cái các chị còn
nói được tiếng Việt không, thì nói ít lắm, phai dần
rồi vì không còn ai dạy chữ như lúc trước chị còn
nhỏ. Cũng kể là về Việt Nam được mấy lần, nhưng
lâu lắm rồi. E bây giờ khác lắm em nhỉ! Rồi các chị
hỏi qua đây làm gì, sao đi có một mình. Mới nói, em qua
đây chơi, vừa là tham khảo mẫu mã mấy mặt hàng mà
hãng em làm việc muốn có. Hỏi đường ra siêu thị, chị
Lệt nhanh nhảu chạy ra ngoài bắt ngay một xe Tuk Tuk, như
xe Xám Lọ bên Lào, kêu chở tôi ra Big C, cũng giá 50 bạt.
Trước khi đi hai chị chụp cùng nhau một phô hình kỷ
niệm, rồi kết nối facebook với nhau như là người quen
tự bao giờ mới gặp lại.
Lội một vòng quanh siêu thị,
chụp mấy chục bức hình các kệ hàng hóa mà không bị
ai nhắc nhỡ như ở bên mình. Xong việc đi ra sảnh mua
chục bánh khọt ăn thay bữa trưa, rồi bắt Tuk Tuk đi ra
chợ Trưa thăm quan mấy gian hàng. Dừng lại trước một
quầy nông ngư cụ, thích thú ngắm nhìn đủ thứ món
hàng gắn liền với văn minh nông nghiệp như cuốc, xẻng,
mai, thuổng và cả lò đất. Ngư cụ bằng tre không thiếu
thứ gì, nào lọp, đú, lờ, hom hoặc nơm cá đều đủ
cả, chẳng khác gì Việt Nam. Xin chụp phô hình, tự giới
thiệu là người Việt qua chơi, thì té ra chủ hàng cũng
là người Việt, o Gái quê gốc Hương Trà - Thừa Thiên,
cha mẹ đẻ ở bên này. Lại bắt chuyện như bà con mới
gặp, hỏi han đủ điều bên nhà cuộc sống ra sao, dạo
này chắc khá hơn trước? Hỏi o buôn bán làm ăn ở đây
có thuận, o nói xung quanh đây người Việt cả, nên đùm
bọc nhau sinh sống. Đó, trong chợ con ngó vậy chứ toàn
người bên mình không hà, chỉ có hai nhà đằng kia là
người Hoa thôi, mà họ cũng tha hương như mình nên cũng
xem nhau như là người một nhà, chứ không phân biệt gì.
O cũng kể hồi chiến tranh bà con bên này quyên góp tiền
của rất nhiều gửi về giúp đỡ thân nhân, máu chảy
thì ruột mềm con ạ. Rồi o kể thêm chuyện năm xưa học
tiếng Việt khó khăn lắm, người ta bố ráp hoài, thầy
giáo phải mở lớp dạy chùng, mà bị bắt thì phải tội
đi tù. Bây giờ con cháu o thì có biết nói nhưng không
đọc hay viết được, vì không còn ai dạy chữ, nên
nhiều khi nghĩ đến tiếng Việt thất dần mà thương lắm
con ơi, tiếng ba tiếng mạ mình để lại mà mình không
giữ được!
Đến chợ Sáng cũng gần đó, vẫn
là những hàng quán của đa số bà con Việt kiều mở ra
làm ăn buôn bán. Mới thầm nghĩ có lẽ nghề này chỉ
cần nhạy bén là được, chứ không phải học hành gì.
Bởi lẽ ngày xưa khi chạy giặc qua đây, thì bà con ta
cầm chừng cuộc sống qua ngày chờ hết chiến tranh lại
về, nào đâu nghĩ đến học hành làm chi, với lại có
biết chữ Thái đâu mà học. Chiến tranh kéo dài, hết
kháng Pháp rồi đánh Mỹ, bà con ở lâu thành quê quán,
lập nghiệp bằng nghề buôn bán là dễ nhất, để lại
cho con cháu cũng nghề ấy mà sinh sống lâu dài.
Mukdahan là thành phố loại vừa,
chỉ chừng một trăm nghìn dân, ít hơn hai mươi nghìn so
với bên Phom Vi Hản, nhưng có diện tích nội ô nhỏ hơn
nhiều. Vì chưng Sa Vẳn do người Pháp quy hoạch kiểu Âu
châu, khác với cách thức kiến thiết lối người Anh,
vốn không có nhiều diện tích như lục địa nên xây
dựng chồng tầng. Trên các trục phố chính là những dãy
nhà dân sinh ba bốn tầng liền kề không dứt. Lại những
tòa nhà cao tầng hiện đại vút lên ở khu vực trung tâm
là những công sở, ngân hàng, hay khách sạn trong khi những
kiến trúc tương tự ở Phom Vi Hản chỉ hai tầng là cao.
Cũng lối người Anh, giao thông bên này đi về bên trái,
làm tôi suýt chết khi đi bộ băng qua đường vì cứ nhìn
chiều nghịch theo thói quen ở Việt Nam, thì một chiếc
bán tải phanh kịt ngay sau lưng. Hoảng hồn nhìn tài xế
đang thò đầu ra nói “xin lỗi, xin lỗi”, sực nhớ
đang ở đất Thái nên chắp tay cúi đầu “Khỏ thôt
cáp, khon Viet, khon Viet – xin lỗi anh, em là người Việt,
người Việt”. Nhận được cái gật đầu mỉm cười
thông cảm rất đỗi hiền từ, lại còn vẫy tay “La
con, la con cáp – tạm biệt, tạm biệt” rồi vần lái
đi tiếp.
Chốc lát đã qua đầu giờ chiều.
Tính xuống bến phà cũ mua ít đồ trang sức bạc cho mấy
sắp nhỏ bên nhà, vì bạc Thái bền sáng, như chiếc nhẫn
tôi mua hơn mười năm trước đang đeo ngón tay vẫn còn
đẹp, nhưng sợ trễ giờ về nên thôi. Vẫy một chiếc
Tuk Tuk dừng lại, kêu chở đi một vòng mấy con phố nữa,
rồi chạy ra thẳng cửa khẩu chứ không về lại bến
xe, hết trăm tư bạt, làm thủ tục xuất cảnh khỏi Thái
Lan rồi mua chiếc vé xe bus thêm 50 bạt nữa, một lát thì
lên xe tạm biệt đất nước Chùa Vàng. Xe qua cầu biên
giới, ngắm mấy hòn cù lao xanh mướt nổi giữa dòng
Mekong, được chia cho phía Lào khi hiệp định biên giới
Pháp - Xiêm được ký năm xưa, như là một phần đền bù
ít ỏi còn lại cho cuộc đất vùng Isan đã rời xa vĩnh
viễn khỏi cố quốc Lào, mà chạnh lòng nghĩ đến quần
đảo Hoàng Sa ngoài biển Đông không biết bao giờ được
hồi hương về với cương vực Đại Việt ta.
Chặng xe dù rất ngắn, nhưng cũng
kịp làm quen với Som, em gái người Lào qua Mục có việc.
Vì tỉnh liền kề nên người Savanakhet qua Mukdahan chỉ
cần sử dụng giấy thông hành thay cho hộ chiếu. Som làm
việc cho Liên doanh quốc tế cầu Hữu Nghị II Lào - Thái,
phân nhánh Sê Pôn. Em nói tiếng Anh trôi chảy, chứ không
như tôi cứ lúng búng rứt từng từ ê ê a a như gà mắc
tóc khi muốn diễn đạt một điều gì. Tôi khen người
Lào cũng như người Thái rất tốt, ai cũng hiền lành dễ
mến, thì em nói người Việt ở đây cũng vậy mà. À,
thì ra đất lành làm nên tính cách hiền hòa của con
người, chứ không phân nguồn kể gốc. Hẹn Som có dịp
thì nên qua Việt Nam chơi cho biết, Việt Nam cũng đẹp
lắm em à!
Xuống bến xe Cay Xỏn, vào quán
làm ngay tô mì dằn bụng, chờ bạn qua đón rồi ra cây
số mười hai đổ xăng chuẩn bị cho hành trình ngược
lại. Người Lào rất nhanh chóng thích nghi với xu thế
kinh doanh kiểu mới, trong tổ hợp cây xăng có đủ thứ
dịch vụ, nào cửa hàng tiện lợi, hàng ăn fastfood và cả
quán cà phê Amazon thiết kế hiện đại như phương Tây.
Vào quán ngồi uống nước, gặp Thoong cũng là Việt kiều,
bố mẹ gốc Hà Nội qua Pakse rồi về đây lập nghiệp.
Thoong là chủ một quán bar khá lớn ở Sa Vẳn này, đang
muốn cơi nới thêm diện tích để đáp ứng đủ chỗ
cho khách vào mỗi dịp cuối tuần, tức là làm ăn rất
ổn. Tiếng Việt của Thoong lơ lớ còn khó nghe hơn mấy
chị mấy o bên Thái. Mới hỏi con em có nói được tiếng
mình không? In ít thôi anh à, nghe bố nói thì nói theo, chứ
mẹ mấy cháu là khon Lào, đâu có dạy được. Vả lại,
trẻ con ở đây người ta cho đi học tiếng Hoa ở các
trường quốc tế, cùng với Anh ngữ. Còn chữ Thái thì
cứ xem tivi cả ngày là tự nhiên đọc được, khỏi phải
học. Nên lớn lên chúng sẽ nói được đủ thứ tiếng
cả, đi đâu làm ăn gì cũng giao tiếp được, không đâu
bằng ở đây, anh xem có đúng không!
Năm giờ chiều tôi rời Phom Vi
Hản, xuôi đường 9 về lại Việt Nam chỉ sau một ngày
đêm với đôi bờ sông Mekong ăm ắp danh lam thắng cảnh,
chùa chiền mà tôi còn chưa đến thăm được. Tám rưỡi
tối đến cửa khẩu Lao Bảo, vừa kịp làm thủ tục
xuất nhập cảnh vào nhà. Ngoái nhìn lại phía tây lần
nữa với tấm lòng hoài cảm về một vùng đất đẹp đẽ
tôi vừa đi qua. Ở đó còn rất nhiều những dòng máu
Việt đang âm thầm chảy trong từng huyết quản mà luôn
niệm nhớ về quê hương nguồn cội bên bờ biển Đông
cố quận, nơi cha ông họ vạn bất đắc dĩ phải lìa xa
lúc chiến tranh.
La con mường Thái, khỏ la pa thết
Lào! Hẹn một ngày tôi sẽ lại lên thăm, sẽ đi Chiềng
Mạy, sẽ về Viêng Chăn theo những lời mời thân ái từ
bè bạn trên ấy. Ừ, tôi sẽ lên!