Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, November 14, 2025

CHIỀU TRÊN SÔNG LA NGÀ - Thơ Nguyễn Văn Long - Nhạc Nguyễn Khắc Phước

 


Nguyễn Văn Long

CHIỀU TRÊN SÔNG LA NGÀ

 

 

   Chiều trên sông soi nghiêng mờ đỉnh núi

   Thuyền êm xuôi sông vắng nước lên rồi

   Chiều xuống muộn hoa bằng lăng tím ngắt

   Lục bình trôi xanh thẳm, lục bình trôi

  

   Sông La Ngà bao đời nay vẫn thế

   Vẫn hai mùa mưa nắng đục trong

   Khi cạn khi sâu lao xao gợn sóng

   Con nước lên cao con nước xuôi dòng

 

   Ta hơn nửa đời làm hàn sĩ

   Đã từ lâu xa lạ phố phường

   Nợ áo cơm nhiều khi thẹn mặt

   Đêm lều tranh uống rượu ngắm trăng suông

 

   Đôi khi thơ thẩn tìm quanh quất

   Cảm khái làm thơ chẳng bỏ sầu

   Xem ra thiên hạ lòng không chật

   Thôi cũng đành xong chuyện bể dâu

 

   Ta bỗng nhớ dòng sông tuổi nhỏ

   Sáng hồn ta một thuở trăng chờ

   Có nắng về hoa cười mắt biếc

   Em tới trường áo luạ mùa thu

 

   Ta đơn độc giữa một trời sông nước

   Ngắm hoàng hôn mây trắng ngang đầu

   Chiều trên sông La Ngà buồn hiu hắt

   Dòng sông xưa ai biết chảy về đâu?

                             1988

 

 

https://nguyentrai5.webnode.page/songlanga/

READ MORE - CHIỀU TRÊN SÔNG LA NGÀ - Thơ Nguyễn Văn Long - Nhạc Nguyễn Khắc Phước

NỬA KIA – Thơ Lê Kim Thượng


 

1.
Nhớ ngày thưở ấy… “Ngày xưa…”
Chung trường, chung lớp… tuổi vừa biết yêu
Thương ngày nắng sớm, mưa chiều
Ngày thơ, ngày mộng, dáng Kiều lung linh
Trao nhau những nụ hôn tình
Nắng soi mặt nước in hình đôi ta
Tình yêu chắp cánh bay xa
Vòng tay ôm ấp, ngày qua, ngày ngày
Người yêu như thể người say
Men tình chuếnh choáng, ngất ngây miệt mài
Yêu người mới biết nhớ hoài
Yêu người mới biết ngày dài quạnh hiu
Trong vòng tay ấm hương yêu
Lời tình thủ thỉ, cho nhiều thiết tha
Hoàng hôn tắt nắng đường xa
Bước về không nỡ… ơi ta… ơi mình…
 
2.
Yêu nhau một thưở cũng đành
Miễn là thưở ấy chân thành đậm sâu
Không còn trẻ để với nhau
Không em chua xót thương đau nửa hồn
Em xưa giờ đã theo chồng
Tôi còn giữ mãi tấm lòng xót xa
Mùa qua, rồi lại năm qua
Thương nhau đứt ruột nói ra chạnh lòng
Trăm năm tôi vẫn ngóng trông
Trăm năm một hướng vẫn không đổi chiều
Nhớ buồn vui một thời yêu
Nỗi đau hóa đá lắm điều chông gai
Nhớ em nỗi nhớ lâu dài
Cồn cào, tha thiết, u hoài, lặng im
Nhớ hai mảnh vở trái tim
Để tôi thương tiếc đi tìm… nửa kia…     
 
Nha Trang, tháng 11. 2025
Lê Kim Thượng
 
READ MORE - NỬA KIA – Thơ Lê Kim Thượng

TIẾNG QUÊ VỌNG GỌI – Thơ Tịnh Bình




Biết tìm đâu vệt mây chiều cố xứ
Mắt hoàng hôn ầng ậng nước nhớ nhà
Ta xa lạ giữa bốn bề vội vã
Chợt thèm quê
Cỏ dại
Một lối về...
 
Nghe sông gọi lời phù sa ngọt lịm
Nước về đâu trăm sóng nhỏ lạc dòng
Đớp bóng mình cá lầm mê nguồn cội
Vỡ bóng rằm trăng òa khóc mặt sông
 
Thương bóng núi trầm mặc cùng lau lách
Những đàn bò mê mải gặm hoàng hôn
Nhòa dáng khói cánh đồng như thiếp ngủ
Tiếng mục đồng bảng lảng vọng chiều hôm
 
Nhói lòng không cỏ may ghim chân bước
Quê mình ơi man mác điệu ru hời
 
Bay về đâu cánh chim trời nặng nợ
Lả giọng mây chiều... Tiếng quê gọi mòn hơi...
 
Tịnh Bình

READ MORE - TIẾNG QUÊ VỌNG GỌI – Thơ Tịnh Bình

"CÓ PHẢI LÀ GIẤC MƠ" - HÌNH HỌC CỦA TÌNH YÊU GIỮA THỰC VÀ MỘNG - Cảm nhận của Bùi Quang Xuân về thi phẩm của Hoàng Chẫm

Nhà thơ Hoàng Chẫm


 Thi pháp đương đại

CÓ PHẢI LÀ GIẤC MƠ 
– HÌNH HỌC CỦA TÌNH YÊU GIỮA THỰC VÀ MỘNG

Bài viết của Bùi Quang Xuân

Thi phẩm “Có phải là giấc mơ” 
–tác giả Hoàng Chẫm


Có những bài thơ đến với ta như hơi thở dịu nhẹ của đêm thu, vừa thực vừa mộng, vừa gần vừa xa. “Có phải là giấc mơ” của nhà thơ Hoàng Chẫm – viết trong “mùa thu quê nhà 27-09 hai không hai năm” – là một thi phẩm như thế. Ở đó, người đọc không chỉ bắt gặp một câu chuyện tình yêu, mà còn thấy được hình học cảm xúc của tâm hồn, nơi những đường cong của thương nhớ, những điểm cắt của mộng và thực giao nhau trong một không gian mờ ảo, đầy thi vị.

Hơi thở của mộng và sự khởi đầu của yêu thương

Bài thơ mở ra bằng một động từ lạ lẫm mà da diết:

“Đền em một giấc mơ tôi
Bàn tay đan kín với lời cỏ xanh**.”

“Đền em” – không phải là trao tặng, mà là một hành động hoàn trả thiêng liêng. “Giấc mơ tôi” là phần tinh khôi nhất, là linh hồn của cái tôi trữ tình – đem gửi lại cho “em” như một cách bù đắp cho những điều dang dở. Hình ảnh “bàn tay đan kín với lời cỏ xanh” vừa mang chất hội họa, vừa ẩn chứa biểu tượng của sự hòa quyện: tay – lời – cỏ kết thành một tam giác yêu thương, nơi mọi giác quan cùng lên tiếng.

Trong thế giới của Hoàng Chẫm, ngôn ngữ không chỉ là tiếng nói, mà là xúc cảm chạm được. “Ngỡ ngàng tóc rối buông mành / Môi thơm cúi mặt để dành yêu thương” – những chi tiết tưởng nhỏ, nhưng gợi cả một không gian tĩnh mà động, ẩn mà hiện. Giọng điệu thủ thỉ, dịu dàng như lời tự tình giữa đêm, làm ta liên tưởng đến những mối tình chỉ có thể nở hoa trong giấc mộng, nhưng lại sống thật hơn cả đời thực.

Nghịch lý trữ tình – khi gần gũi hóa thành xa xôi

Nếu khổ đầu là sự hòa nhập của hai tâm hồn, thì khổ giữa lại mở ra nghịch lý của yêu xa – yêu trong mộng:

“ Một tôi đếm những lạ thường nghiêng đêm 

Tóc mây từng ngón tay mềm 

Đan từng kẻ nhớ cho thêm ấm nồng .”

Tình yêu trong thơ Hoàng Chẫm không đo bằng thời gian hay khoảng cách, mà bằng nhịp đếm của cảm xúc. Từ “đếm” không mang ý đong đếm vật chất, mà là sự tự thức về nỗi cô đơn – đếm từng hơi thở của đêm, từng nhịp đập của nhớ nhung. Hình ảnh “tóc mây”, “ngón tay mềm”, “kẻ nhớ” là ba tầng biểu tượng nối tiếp – từ hữu hình đến vô hình – được nhà thơ đan dệt bằng ngôn ngữ cảm giác.

Ở đây, ta thấy rõ một không gian tâm tưởng được mở rộng: mộng không còn là ảo ảnh mà trở thành nơi trú ngụ của tâm hồn. Mỗi chi tiết đều mang tính biểu cảm cao, vừa tinh tế, vừa phảng phất nỗi buồn mỏng manh.


Khi nỗi nhớ trở thành hình thái của tình yêu

Khổ thơ cuối là phần sâu nhất, nơi mộng rơi xuống đời thường, và tình yêu hóa thành nỗi nhớ có hình khối:

“Giấc mơ rơi xuống mênh mông 

Phía em dài rộng thêm hồng đêm hoang 

Phía tôi góp nhặt lỡ làng 

Xếp chồng nỗi nhớ vội vàng yêu xa.” 

Cặp đối xứng “phía em – phía tôi” là sự chia đôi không gian và cảm xúc. “Phía em” rực rỡ, ấm áp; “phía tôi” lặng lẽ, gom góp. Hai thế giới song hành ấy tạo nên độ căng của thi ảnh, làm nổi bật nỗi cô độc trong song hành – một dạng cảm xúc nghịch lý rất hiện đại.

Câu thơ kết “xếp chồng nỗi nhớ vội vàng yêu xa” là một tuyên ngôn trữ tình: tình yêu, dù xa cách, vẫn tồn tại và sinh sôi trong chính sự vội vàng, trong những lần nhớ chưa kịp nguôi. Ở đây, Hoàng Chẫm không miêu tả nỗi buồn như mất mát, mà nâng nó lên thành hình học của yêu thương – nơi nỗi nhớ là thước đo duy nhất của lòng người.


“Có phải là giấc mơ” không chỉ là bài thơ tình thuần túy, mà còn là một bản giao hưởng về cảm giác và triết lý yêu thương. Tác giả đã tạo nên một không gian nghệ thuật dung hòa giữa thực và mộng, giữa gần và xa, giữa cái có thể chạm và cái không thể với tới.

Giấc mơ trong thơ Hoàng Chẫm không phải là nơi trốn chạy, mà là cõi đi về của tâm hồn khi tình yêu vượt khỏi giới hạn đời thường. Ở đó, con người vẫn “đếm những lạ thường nghiêng đêm”, vẫn “xếp chồng nỗi nhớ”, vẫn “vội vàng yêu xa” — để chứng minh rằng: tình yêu chỉ thật sự sống khi ta dám mơ về nó, ngay cả trong chia lìa.

BÙI QUANG XUÂN


CÓ PHẢI LÀ GIẤC MƠ 

Thơ  Hoàng Chẫm


Đền em một giấc mơ tôi 
Bàn tay đan kín với lời cỏ xanh 
Ngỡ ngàng tóc rối buông mành 
Môi thơm cúi mặt để dành yêu thương 
Giấc mơ vừa những vấn vương 
Một tôi đếm những lạ thường nghiêng đêm 
Tóc mây từng ngón tay mềm 
Đan từng kẻ nhớ cho thêm ấm nồng 
Giấc mơ rơi xuống mênh mông 
Phía em dài rộng thêm hồng đêm hoang 
Phía tôi góp nhặt lỡ làng 
Xếp chồng nỗi nhớ vội vàng yêu xa. 

 H.C.

READ MORE - "CÓ PHẢI LÀ GIẤC MƠ" - HÌNH HỌC CỦA TÌNH YÊU GIỮA THỰC VÀ MỘNG - Cảm nhận của Bùi Quang Xuân về thi phẩm của Hoàng Chẫm

VÀI TÂM SỰ VỀ CÂU "NGHỊCH THIÊN CẢI MỆNH" - Đặng Xuân Xuyến

 

Tác giả Đặng Xuân Xuyên

VÀI TÂM SỰ VỀ CÂU

"NGHỊCH THIÊN CẢI MỆNH"

 

Khuya qua, ngày 10 tháng 11 năm 2025, một bạn đọc điện hỏi con người có "Nghịch Thiên cải Mệnh" được không vì mấy Thầy Tử vi nói với cậu ấy là "Di cung hoán số" được. Vì đã gần 24 giờ, khuya quá rồi, tôi không tiện trả lời nên hẹn cậu ấy sáng nay sẽ viết vài dòng về thắc mắc của cậu ấy, cũng là thắc mắc của một số bạn đọc khác đã gửi tới tôi: có thật sự "Nghịch Thiên cải Mệnh" được không?

Cái được gọi là "Thiên Mệnh" ấy, hiểu đơn giản là khuôn khổ, giới hạn mà tạo hóa đã định sẵn cho mỗi người, nó tựa như bản vẽ thiết kế gốc ngôi nhà cuộc đời của mỗi người ngay từ khoảnh khắc người đó cất tiếng khóc chào đời. Cái khung giới hạn đó con người không thể thay đổi được nhưng có thể tác động mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống bên trong khuôn khổ đó bằng những nỗ lực, đạo đức và trí tuệ của chính mình. 

Tử Vi, Tứ Trụ hay Tướng Thuật, Lý Số,... chỉ là các phương tiện giúp ta nhìn rõ những cây cột cái vững chắc, những góc khuất ẩm thấp và những lối đi gập ghềnh cần tránh trong bản vẽ thiết kế ngôi nhà cuộc đời đó, tuyệt nhiên không phải là cây bút thần thánh có thể tùy tiện vẽ lại bản thiết kế đó theo ý của mình. Vì thế, việc "Nghịch Thiên cải Mệnh" hay "Di cung hoán số" như những ông đồng bà cốt lôi kéo các “con nhang đệ tử” vào các nghi lễ tâm linh, mà trong nhiều trường hợp các nghi lễ này bị biến tướng thành hành vi lừa đảo, tuyệt đối là ảo tưởng hão huyền, là điều không thể. Ví như “Thiên Mệnh” của mình là ngôi nhà cấp 4 thì mình chỉ có thể quét tước sạch sẽ, sơn phết lại màu tường, trồng thêm mấy khóm hoa, bắc thêm cái giàn mướp... để ngôi nhà nhiều năng lượng hơn, ấm áp hơn, đẹp đẽ hơn trong giới hạn của cái "Mệnh" đã được tạo hóa định sẵn, những việc làm đó là cái "vận" mình tự sửa sang, chứ không thể là "cải mệnh" để biến ngôi nhà cấp 4 thành căn biệt thự lầu son được?!

Mục đích của việc xem số không phải để mưu cầu sự giàu sang phú quý mà là để “Thuận Thiên ứng Mệnh”, để hiểu thấu triệt cụm từ "biết mình biết ta" trong đời sống tâm linh (ta chỉ cần biết rõ về ta là ta đã "giác ngộ", ta sẽ chiến thắng được đời) mà sống thuận theo dòng chảy của lẽ tự nhiên. Ví như khi mùa đông đến thì lo chuẩn bị quần áo chống rét, khi mùa gió nồm về thì lo ngăn không khí ẩm từ bên ngoài vào nhà, đó là sự thích nghi khôn ngoan của người thức thời. Hay khi biết vận hạn đang bủa vây thì thận trọng lại lời ăn tiếng nói và khiêm nhường hơn trong hành động, rồi lo gieo duyên lành để giảm bớt tai ương. Đó là sự tính toán khôn ngoan của người biết nương theo chiều gió, biết lèo lái con thuyền đời qua ghềnh thác được an toàn hoặc chí ít giảm thiểu những nguy hiểm thiệt hại, chứ không phải cái kiểu biết được số rồi thì ngông nghênh gồng mình lên chống lại cơn bão táp vô hình mà chuốc lấy họa vào thân. Việc xem Tử Vi, Tứ Trụ hay Tướng Thuật, Lý Số... giúp ta biết được lúc nào vận mình lên, lúc nào vận mình xuống mà chuẩn bị tâm lý, hành động để sống hòa hợp với quy luật đó, giống như có trong tay một bản đồ dự báo thời tiết sẽ giúp ta biết được lúc nào trời nắng, lúc nào trời mưa để mang theo ô khi trời nắng, mang theo áo mưa khi trời mưa chứ không phải để ta cản lại trời nắng, ngăn lại trời mưa. Tóm lại, mục đích việc xem số không phải để "nghịch Thiên cải Mệnh" mà là để ta sống một cuộc đời chủ động, có ý nghĩa và bình thản hơn trong khuôn khổ của số phận đã được an bài.

Về việc cải vận thì đúng là trong tín ngưỡng dân gian có lưu truyền những phương pháp "cải thiện số mệnh" được cổ nhân đúc kết như: Làm việc thiện, ăn chay niệm Phật, thay đổi môi trường sống tích cực... những phương pháp này có thể giúp chuyển "Vận" (chứ không cải được Mệnh) thay đổi theo thời gian, theo công sức nỗ lực của mỗi người. Nó giống như ta chăm bón cho mảnh vườn của mình: giúp cây tươi tốt hơn, hoa nở rộ hơn, đẹp hơn, thậm chí có thể khiến hoa nở cả lúc trái mùa nhưng không thể biến cây mai thành cây đào, biến quả na thành quả mít được. Mức độ thay đổi này, nói cho cùng cũng nằm trong cái "nghiệp quả" của mỗi người. Ai gieo nhân nào thì gặt quả nấy, luật trời công bằng lắm, sự can thiệp của con người thật nhỏ bé trước sự chế tài công bằng đến khắc nghiệt của luật Luân Hồi - Nhân Quả.

*.

Hà Nội, sáng 11 tháng 11-2025

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

.

 

READ MORE - VÀI TÂM SỰ VỀ CÂU "NGHỊCH THIÊN CẢI MỆNH" - Đặng Xuân Xuyến

TẢN MẠN VỀ TRÀ TRƯỚC THỀM XUÂN BÍNH NGỌ - Lê Thi

 


TẢN MẠN VỀ TRÀ TRƯỚC THỀM XUÂN BÍNH NGỌ

                                           Lê Thi

     Các loại trà trên thế giới có thể được phân loại thành các nhóm chính như trà xanh, trà đen, trà ô long, trà trắng và trà phổ nhĩ, dựa trên mức độ oxy hóa. Ngoài ra còn có các loại trà thảo mộc, trà trái cây và trà ướp hương, mang đến sự đa dạng về hương vị và công dụng. 

    Người Việt chúng ta thường uống trà móc câu.

    Trà móc câu chứa nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe như polyphenol, catechin, caffeine, L-theanine, vitamin C, vitamin nhóm B, và các khoáng chất như kali, magie, mangan. Các chất này có tác dụng chống oxy hóa, tăng cường hệ miễn dịch, hỗ trợ chức năng não bộ, và giúp giảm căng thẳng. 

    Trà Việt Nam không chỉ là một thức uống quen thuộc mà còn là một phần quan trọng của văn hóa truyền thống. Qua hàng thế kỷ, nghệ thuật uống trà đã được gìn giữ và phát triển, biến trà thành một sản phẩm không chỉ mang lại sự thư thái, mà còn là biểu tượng của sự tinh tế và lịch lãm. Trong số những loại trà nổi tiếng, có 04 loại chè đắt nhất Việt Nam, mang trong mình không chỉ giá trị kinh tế mà còn chứa đựng tinh hoa văn hóa và nghệ thuật chế biến trà. 

1-Trà Thái Nguyên hương vị thuần tuý.

2- Trà Sen Tây Hồ.

3-Trà Shan Tuyết cổ thụ

4-Trà cổ thụ Bạch Long. Đắt nhất Việt Nam.

Tác giả xin sơ qua đôi nét về các loại trà:

    Trà Thái Nguyên từ lâu đã trở thành biểu tượng của sự tinh tế trong nghệ thuật thưởng trà tại Việt Nam. Vùng đất Thái Nguyên, với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng đặc biệt, đã sản sinh ra những búp trà xanh mướt, có hương vị đặc trưng mà khó có nơi nào sánh được. Trà Thái Nguyên nổi tiếng với hương thơm nhẹ nhàng, vị chát dịu, và đặc biệt là hậu vị ngọt sâu khi uống.

     Trà Sen Tây Hồ là một trong những loại trà nổi tiếng và đắt giá ở Việt Nam, được mệnh danh là “thiên cổ đệ nhất trà Việt”. Loại trà này được chế biến từ trà xanh nguyên chất, ướp cùng với những cánh hoa sen tươi từ Hồ Tây, Hà Nội. Hương sen tự nhiên được thấm vào từng búp trà qua nhiều lần ướp, tạo ra một loại trà có hương vị thanh tao, dịu nhẹ và rất đặc trưng.

    Để ướp 1kg trà sen ngon, bạn cần khoảng 1300- 1500 bông sen để lấy gạo sen. Quá trình này đòi hỏi sự tỉ mỉ, lặp đi lặp lại nhiều lần để trà thấm đượm hương thơm của hoa sen. 

    Do mất nhiều thời gian và kỳ công vậy nên giá nó cao. Và khi được gia chủ mời ấm trà ngon ta biết trân trọng và thưởng thức cùng gia chủ.

    Trà Shan Tuyết Cổ Thụ được ví như báu vật của núi rừng Việt Nam, với những cây chè cổ thụ mọc tự nhiên trên các vùng núi cao từ 1.200 đến 2.000 mét ở các tỉnh phía Bắc như Hà Giang, Lào Cai. Loại trà này nổi tiếng với lớp lông tơ trắng như tuyết bao phủ bên ngoài búp trà, từ đó có tên gọi “Shan Tuyết” với 5 cái nhất: hiếm nhất, sạch nhất, ngon nhất, đắt nhất, quý nhất.

    Để sản xuất được loại trà này, các nghệ nhân phải leo núi, vượt qua địa hình hiểm trở để thu hoạch những búp trà non. Sau khi hái, trà được chế biến theo phương pháp thủ công truyền thống, đảm bảo giữ được hương vị tự nhiên và tinh túy nhất của trà.

    Với sự quý hiếm và công phu trong sản xuất, Trà Shan Tuyết Cổ Thụ luôn được săn đón và có giá trị rất cao trên thị trường.

    Đây là món trà biếu cao cấp, hay tiếp đón các đoàn ngoại giao, thượng khách để thể hiện sự tôn kính của chủ nhà.

    Trà Cổ Thụ Bạch Long, được xem là loại chè đắt nhất Việt Nam, là một sản phẩm vô cùng quý hiếm. Loại trà này được làm từ những cây chè cổ thụ có tuổi đời hàng ngàn năm, mọc tự nhiên trên dãy núi Hoàng Liên Sơn ở độ cao 2.400 – 2.700 mét.

    Với giá trị lên tới 680 triệu đồng/kg, loại trà này có độ hiếm cực kỳ cao, chỉ còn khoảng 50-60 gốc cây tồn tại. Mỗi năm, người dân chỉ thu hoạch được từ 2-3 kg trà, với quy trình thu hoạch tỉ mỉ kéo dài nhiều giờ.

    Mọc ở nơi núi cao, hấp thụ dưỡng chất của đất trời, hương vị thuần túy của đất trời dường như đã thấm nhuần vào loại trà này. Chính vì vậy trà có hương vị rất riêng say đắm lòng người. Theo cách nghĩ chủ quan của tác giả do số lượng có hạn, nên để được thưởng thức chum trà này chắc cũng ít có dịp, đôi khi có tiền chưa chắc đã được trải nghiệm và cảm nhận hương vị.

    Ngoài trà ngon ra, để pha một ấm trà cũng kỳ công và mang đậm bản sắc văn hoá. 

    Nhất nước - Nhì pha - Tam trà - Tứ ấm.

    Nước pha trà ngon nhất là nước tinh khiết, không tạp chất, có độ pH trung tính, có thể là nước giếng, nước suối hoặc nước được lọc sạch. Để đạt được hương vị tối ưu, bạn nên tránh sử dụng nước máy chưa qua xử lý hoặc nước có clo, vì những tạp chất này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mùi vị của trà. Kỳ công buổi sáng lấy những giọt nước (sương mai) đọng trên lá sen để pha. Nhưng thực tế làm được vậy rất khó.

     Để pha một ấm trà ngon, bạn cần tráng ấm chén trước, sau đó cho trà vào ấm và đánh thức trà bằng cách tráng nhanh với nước nóng rồi đổ đi. Tiếp theo, bạn hãm trà trong khoảng 10-40 giây tùy loại trà. Cuối cùng, rót hết nước trà ra chuyên rồi từ chuyên mới rót ra các chén để thưởng thức. Nếu bộ ấm trà bạn không có chuyên bạn nên rót đều, rồi ngược vòng trở lại làm cho nước ra đều trong mỗi ly trà. Nếu bạn rót từng ly xong thì 6 tách trà có có màu khác nhau. Rượu thì rót đầy ly, trà bạn rót 2/3 để tỏ lòng kính khách. Khi mời trà nên chú ý để quay cầm( nếu có )vào tay thuận của khách. Chú ý quan sát và rót trà khi khách đã nhâm nhi gần hết.

    Đến việc chọn trà thì tuỳ theo sở thích, mức thu nhập, và khách nào trà đó do bạn quyết định. Khi bạn muốn giữ chân khách lâu, bạn pha trà, bạn muốn khách về sớm vì bạn không có thời gian nên mời nước lọc. Khi ta là khách chúng ta nên ý tứ và hiểu gia chủ. Bản thân tác giả thường có trên 10 loại trà, hơn 20 bộ ấm, hiểu gu của khách và thời tiết để uống cho thích hợp. Vì đôi khi trà đắt tiền quý hiếm nhưng khách không thích mùi vị và cảm nhận hết hương vị ngon của nó. 

    Các loại ấm pha trà phổ biến bao gồm ấm đất (như ấm Tử Sa, ấm gốm), ấm sứ, ấm gang, và ấm thủy tinh. Mỗi loại ấm phù hợp với từng loại trà và nhu cầu thưởng trà khác nhau, ví dụ như ấm Tử Sa để giữ trọn hương vị, ấm gốm Bát Tràng cho hương vị đậm đà, ấm sứ phù hợp trà xanh và ấm thủy tinh giúp quan sát lá trà. 

    Trong văn hoá trà đạo Việt Nam và Trung Hoa, khi nói đến “độc ấm”, “song ấm”, “quần ấm”, người ta thường phân loại theo số lượng người uống và số ấm chén dùng để pha trà. Cụ thể:

​     Độc ấm (độc ẩm)

    “Độc” nghĩa là một mình.

    ​Là hình thức uống trà một người, thường để thưởng trà, ngẫm sự đời, đọc sách hay làm thơ.

    ​Dụng cụ: chỉ cần một ấm trà nhỏ và một chén.

    Mang tính tĩnh lặng, cá nhân, thiên về thưởng thức và thiền định.

    Song ấm (song ẩm)

    ​“Song” nghĩa là hai người.

    ​Là hình thức hai người cùng thưởng trà, thường là bạn tri âm, tri kỷ hoặc khách quý.

    ​Dụng cụ: một ấm, hai chén trà.

    Mang ý nghĩa giao tình, tâm giao, thể hiện sự tôn trọng và hòa hợp.

    Quần ấm (quần ẩm)

    ‘’Quần” nghĩa là nhiều người.

    Là hình thức nhiều người cùng uống trà, thường trong dịp sum họp, tiếp khách, hoặc bàn chuyện lớn.

    Dụng cụ: một ấm trà lớn hoặc nhiều ấm, nhiều chén nhỏ.

    ​Mang ý nghĩa hòa khí, đoàn tụ, giao lưu.

    Khi thưởng thức trà, ta như ngồi tâm sự với một người đẹp, cảm nhận được hương trong đó, nét đẹp tao nhã, thanh cao. Dù trà có ngon bạn bảo quản không kỹ mất hương không còn phần hồn nữa. 

    Nhân dịp trước thềm Xuân Bính Ngọ tác giả xin tản mạn đôi nét về Trà và cầu chúc mọi gia đình đón một mùa Xuân an lành và hạnh phúc. 

    Lê Thi

    Ohio

 

READ MORE - TẢN MẠN VỀ TRÀ TRƯỚC THỀM XUÂN BÍNH NGỌ - Lê Thi