Phạm Đức Nhì
(Trao đổi với Thái Hưng Nguyễn)
Sau khi đọc bài
“Thơ Con Cóc” Có Phải Là Thơ? trên trang Thơ Ca Nghệ
Thuật Đương Đại, anh Thái Hưng Nguyễn (người phụ
trách trang web trên) có đưa ra 3 “đoạn thơ”.
1/ Đầm xưa.
Cóc nhảy vô.
Nước té vang.
2/ Ao cũ.
Chú cóc nhảy
vào.
Tiếng nước xao.
3/ Đồi trọc.
Thoảng trong gió.
Tiếng cóc.
với 2 câu hỏi
có vẻ như đánh đố:
1/ Đoạn nào có
thể gọi là thơ và đoạn nào không phải là thơ?
2/ Những đoạn
được gọi là thơ (nếu có) thì hay hay dở? Hay ở chỗ
nào và dở ở chỗ nào?
Thật ra nếu vững
về lý thuyết thơ thì trả lời 2 câu hỏi này không khó,
nhưng để có thể thuyết phục người đọc chấp nhận
câu trả lời một cách vui vẻ, thoải mái thì một số
kiến thức căn bản về thơ cần phải được chuẩn bị
và xác lập trước. Thành thử câu trả lời sẽ ngắn
nhưng phần chuẩn bị lại hơi dài dòng. Mong anh Thái Hưng
Nguyễn và bạn đọc thông cảm.
Dựa Vào Định
Nghĩa Thơ
Ngày tôi còn mài
đũng quần ở trung học, thơ được hiểu là một loại
hình nghệ thuật dùng chữ, có vần điệu để biểu lộ
một cảm xúc hoặc diễn đạt một ý tưởng cao đẹp
(noble thought). Nhưng khoảng mấy thập niên sau này cái
phần đuôi của định nghĩa thơ: hoặc diễn đạt
một ý tưởng cao đẹp (noble thought), trong rất nhiều
sách và trang web thơ ca, đã lặng lẽ biến mất. Những
“bài thơ” được mang danh hiệu Thơ chỉ nhờ vào ý
tưởng cao đẹp cũng tự động rời bỏ Vườn Thơ để
đi đến những khu vườn khác.
Tuy vậy, hiện
nay vẫn còn một số ít người tiếp tục tin vào và thực
hành tôn chỉ “văn dĩ tải đạo” và cho rằng nên
“dùng Thơ Ca để giáo huấn (dạy) con em, để chúng trở
thành người chính trực, ôn nhu, rộng lượng, kiên nghị,
cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo
mạn.(1). Nếu độc giả đồng ý với cách nhìn ấy thì
hãy ngừng ngay, không nên đọc tiếp bài viết này nữa,
vì như thế sẽ tốn công, phí sức vô ích.
Theo tôi, mục
đích chính của Văn là chuyển tải thông điệp. Cũng có
khi có cảm xúc, nhưng nếu không có cũng không sao. Nhưng
với Thơ thì cảm xúc là cốt yếu; nếu thiếu cảm xúc
thì thơ sẽ không còn là thơ nữa mà thành thể loại
khác.
Tôi đồng ý
với Nguyễn Đình Thi khi ông viết “Làm thơ, ấy
là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói -tức
là chữ- để thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung
chuyển mạnh mẽ khác thường”… " thơ không nói
bằng ý niệm thuần tuý, bởi nếu thế, thơ đã bị đánh
đồng với đạo đức (luân lí), triết học... Con đường
của thơ hướng tới việc "lay động những chiều
sâu của tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy
nghĩ.” … (Mấy Ý Nghĩ Về Thơ)
Còn Nguyễn Hưng
Quốc thì cho rằng “Thơ là cảm xúc (bằng kỹ
thuật thơ) đi tìm một đồng cảm” (mấy chữ
trong ngoặc đơn là của PĐN thêm vào để tránh hiểu
lầm).
Có hai đặc tính
để nhận ra một “Bài Thơ” không phải là Thơ:
1/ Nó hoàn toàn
là sản phẩm của lý trí.
hoặc là:
2/ Tác giả đã
bước vào khung cảnh của “Bài Thơ” nhưng chưa có
những câu Sinh Tình.
Sau đây là một
số thí dụ trong các bài viết cũ của tôi, nay sắp xếp
lại một cách đặc biệt để độc giả dễ tiếp nhận.
Là Sản Phẩm Của
Lý Trí
1/
Hình Vuông
Muốn tìm chu vi
hình vuông
Lấy cạnh nhân
bốn lệ thường nhớ ghi
Diện tích hình
vuông khó gì
Lấy cạnh nhân
cạnh sai đi đường nào
Môt ông thầy dạy
toán nào đấy đã mượn thể thơ lục bát để diễn tả
một công thức toán cho học trò dễ nhớ. Nội dung của
4 câu lục bát hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, không
có một chút cảm xúc nào. Đây không phải là thơ.
2/
Anh Yêu Khoảnh
Đất Hình Vuông
Ôi! Khoảnh đất
hình vuông
ở giữa là căn
nhà nhỏ bé
vách đất, mái
rạ
nơi anh đã gởi
cả trái tim
vì trong căn nhà
đó có em.
(PĐN chế để
minh họa)
Ở đây tác giả
đã bước vào, đã xuất hiện trong khung cảnh thơ, tâm
đã đối cảnh. Và đã có cảm xúc. Hay dở chưa bàn đến,
nhưng Anh Yêu Khoảnh Đất Hình Vuông đã có thể gọi là
thơ.
3/
Công Cha Nghĩa Mẹ
Công cha như núi
Thái Sơn
Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ
kính cha
Cho tròn chữ hiếu
mới là đạo con
(Ca dao)
Một nhà nho đã
đem quan niệm về chữ hiếu của Khổng Tử dàn trải
trong 4 câu lục bát để loan truyền trong dân gian. Đây
chỉ là sản phẩm của lý trí, tâm chưa đối cảnh,
không có cảm xúc, không thể gọi là thơ.
4/
Thôi xa rồi mẹ
ới
lệ nhòa mi mắt
mong con phương
trời
có lần chợt
tỉnh đêm vơi
nghe giòn tiếng
súng nhớ lời phân ly
mẹ ơi con mẹ
tìm đi
bao giờ hết giặc
con về mẹ vui.
(Nhà Tôi, Yên
Thao)
Tác giả đã bước
vào khung cảnh thơ, cảm xúc đã dạt dào. Đích thị là
thơ.
5/
Tháng Giêng Ăn
Tết Ở Nhà
Tháng giêng ăn
tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
(Văn Hóa
Việt, e-cadao.com)
Một nhà nghiên
cứu Văn Hóa Việt đã nhờ vào khả năng quan sát sắc
bén của mình nhận biết và kể lại những nét đặc thù
trong sinh hoạt văn hoá của người Việt Nam từng tháng
một trong năm. Tuy thể thơ lục bát được mượn làm
phương tiện để chuyển tải thông điệp nhưng tác giả
chỉ “đứng ngoài” chứ không cho tâm trạng, cảm xúc
của mình trộn lẫn vào thông điệp. Ở đây chúng ta
cũng chỉ có một loại văn vần chứ không có thơ.
6/
Quan đòi thầy
kiện
Bình bát nấu
canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Có mẹ không cha
Rau má mọc bờ
Thò tay sợ dơ
Đó là rau nhớt
Rau cay như ớt
Vốn thiệt rau
răm
Sống suốt ngàn
năm
Là rau vạn thọ
(Vè Nam Bộ)
Rõ ràng đây là
một đoạn của bài vè. Mỗi câu 4 chữ, gieo vần liên
tiếp. Tác giả (khuyết danh) dùng lối chơi chữ gọi tên
các loại rau một cách trào phúng. Tuyệt nhiên không có
cảm xúc.
Như ta đã biết,
lời dạy của Đức Phật được ghi chép thành Kinh. Đệ
tử của ngài, các tăng ni - dựa vào sự hiểu biết của
mình – giải thích cho Phật Tử dễ hiểu bằng những
đoạn văn vần ngắn. Đó là Kệ. Kinh hay Kệ, dù ý nghĩa
thâm sâu cũng không phải là thơ.
7/
Kinh Pháp Cú
Không làm các
việc ác
Tu tập các hạnh
lành
Giữ tâm ý thanh
tịnh
Là lời chư Phật
dạy
8/
Thị Đệ Tử
Thân như điện
ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân
vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh
suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ
thảo đầu phô.
(Sư Vạn
Hạnh, thivien.net)
Dặn Học Trò
Thân như bóng
chớp có rồi không
Cây cối xuân
tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh
suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ
giọt sương đông
(Ngô Tất Tố
dịch)
Thiền sư Vạn
Hạnh đã dùng hình thức thơ thất ngôn tứ tuyệt để
lý giải lẽ Vô Thường. Tất cả những câu chữ ông
viết ra đều đến từ bề mặt ý thức, là sản phẩm
của lý trí. Ông truyền đạt cho mọi người một phần
sự hiểu biết của ông về đạo Phật; đó là lẽ Vô
Thường của vạn vật. Do không có tâm đối diện với
cảnh sắc, lý chưa biến thành sự, bài Thị Đệ Tử chỉ
là Kệ chứ chưa phải là Thơ.
9/
Hãy Tin Chúa
Hãy tin nơi Thiên
Chúa
Hồn xác dâng cho
ngài
Hãy sống theo lời
Chúa
Chết, sẽ về
nước Trời
Đây chỉ là lời
kêu gọi mọi người Hãy Tin Chúa. Không có bóng dáng cảm
xúc nên không thể gọi là thơ.
10/
Hãy Mua Thuốc Số
42
Ai khóc ngoài quan
ải?
Ai chưa đánh đã
chạy dài?
Thuốc này bôi
một tý thôi
Là trèo lên ngựa
vung roi cả ngày
Thuốc này, ôi
thật là hay!
Thuốc này tên
gọi là Xây Xập Zì (tiếng Hoa: 42)
Đây có vóc dáng
là thơ nhưng chỉ là bài quảng cáo thuốc “chơi lâu”
ở các tỉnh biên giới phía bắc. Nó là sản phẩm của
óc thương mại, kinh doanh, không phải là những lời tâm
tình, hàm chứa cảm xúc.
Có Cảnh Nhưng
Chưa Có Tình
1/
“Thơ Con Cóc”
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
(Đã giải thích)
2/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc
Cũng như “Thơ
Con Cóc”, đây mới chỉ là những câu xác lập khung
cảnh, mặc dù tâm đã đối cảnh nhưng chưa Sinh Tình,
thứ Tình trong “thất tình lục dục” của con người
(hỷ nộ ái ố ai lạc cụ và sắc dục, thanh dục, hương
dục, vị dục, xúc dục, pháp dục), nên chưa phải là
Thơ (loại Thơ Thế Tục ta thường gặp). Tuy nhiên, trường
hợp này do tâm đã đối cảnh, Cái Tôi Chủ Thể đã
bước vào khung cảnh bài thơ, đã có cảm xúc - niềm vui
thấy mình đã buông xả, không còn bị vướng mắc, lôi
kéo. Đây chính là loại Thơ Thiền.
Một Số “Bài
Thơ” Bị Tước Mất Danh Hiệu Thơ.
1/
KIM
LŨ Y
Khuyến
quân mạc tích Kim Lũ Y
Khuyến
quân tích thủ thiếu niên thì
Hoa
khai kham chiết trực tu chiết
Mạc
đãi vô hoa không chiết chi.
Đỗ
Thu Nương
*
*
ÁO
KIM TUYẾN
Khuyên
anh đừng tiếc áo thêu vàng
Khuyên
anh nên tiếc thời trẻ trung
Hoa
nở bẻ được thì nên bẻ
Đừng
chờ hoa hết, bẻ cành không.
2/
LA
CỐNG KHÚC
Kỳ
Tam
Mạc tác thương
nhân phụ
Kim thoa đương
bốc tiền
Triêu triêu giang
khẩu vọng
Thác nhận kỷ
nhân thuyền.
Lưu
Thái Xuân
BÀI
CA LA CỐNG
(bài
3)
Chớ làm vợ
những người lái buôn
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Trâm vàng để trả thày bói (hỏi ngày chồng về).
Sáng nào cũng ra cửa sông trông ngóng,
Mà chỉ thấy nhầm toàn thuyền của người ta.
Hai tác giả sành
đời đã đem kiến thức và kinh nghiệm của mình - bằng
hình thức thơ - khuyên bảo lớp hậu sinh. Nội dung hai
“bài thơ” trên toàn là những điều hay, lẽ phải
nhưng tuyệt nhiên không có cảm xúc. Trước đây, vì quan
niệm “văn dĩ tải đạo” ông cha ta đã long trọng gọi
chúng là Thơ. Nay Thơ đã đi theo một hướng mới, đã có
những định nghĩa mới gắn chặt nó với tâm tình, cảm
xúc của con người nên, dựa vào cách nhìn nhận mới đó,
chúng không còn xứng đáng với danh hiệu Thơ nữa.
Trả Lời Thái
Hưng Nguyễn
Như vậy, “đoạn
thơ” thứ 3 do anh Thái Hưng Nguyễn gởi đến.
1/
Đồi trọc
Thoảng trong gió
Tiếng cóc
đã được trả
lời và xếp loại như ở trên. Rất dễ dàng và đơn
giản. Nó, dù đã xác lập được khung cảnh của “bài
thơ”, vẫn không phải là Thơ (loại Thơ Thế Tục) vì
chưa có câu Sinh Tình (thứ tình trong “thất tình lục
dục”), nhưng có thể gọi là Thơ Thiền.
2/
Đầm xưa.
Cóc nhảy vô.
Nước té vang
Nêú không có chữ
“xưa” thì đoạn này cũng không phải là thơ vì chưa
có câu Sinh Tình. Đưa chữ “xưa” vào đoạn thơ tác
giả đã làm thay đổi hẳn cục diện.
Cóc: nói chung
chung, không có mạo từ nên có thể là số ít và cũng có
thể là số nhiều.
Tứ thơ: nhìn cóc
nhảy vô “cái đầm (ngày) xưa”, nước bắn (lên) vang
những âm thanh quen thuộc, gợi lại biết bao nhiêu kỷ
niệm.
Nhờ chữ “xưa”
nên vừa bước vào khung cảnh của “đoạn thơ”, mặc
dù chưa có những câu Sinh Tình, tình đã tự động
phát sinh, cảm xúc “bắn tung tóe”.
Đoạn này đã đủ
điều kiện để mang danh hiệu Thơ.
Chữ “vang”
không hợp với tiếng nước bắn lên (kim loại thì hợp
hơn); câu “Nước té vang” vừa vụng về, vừa ngô
nghê, và dĩ nhiên, rất dở.
3/
Ao cũ.
Chú Cóc nhảy
vào.
Tiếng nước xao.
Tứ thơ: nhìn Chú
Cóc nhảy vào “cái ao cũ”, tiếng nước làm xao động
biết bao tâm tình từ những kỷ niệm của những tháng
năm xưa.
Đoạn này đã đủ
điều kiện mang danh hiệu Thơ. Thêm nữa, nó còn hay hơn
đoạn trên nhờ chữ “xao” vừa hợp, vừa thanh lại
rất gợi.
Đoạn này có thể
có một cách hiểu khác.
Chú Cóc nhảy
vào: xác định cóc chỉ có một con.
Tứ thơ: Chú Cóc
nhảy vào ao cũ, nghe tiếng nước xao nhớ lại biết bao
kỷ niệm ngày xưa, lòng (Chú Cóc) xốn xang, rung động.
(Trường hợp này có phép ẩn dụ - ý, tứ khác nhau)
Ý: nhìn Chú Cóc
nhảy vào “ao cũ” làm nước xao động, tác giả chợt
nhận ra tâm trạng của mình cũng giống Chú Cóc - bao kỷ
niệm hiện về, tâm hồn bâng khuâng, xao xuyến.
Có phép ẩn dụ,
đoạn thơ sang hẳn lên, và vì thế, hay hơn nhiều.
Tuy nhiên, nếu
hiểu theo cách này sẽ khó trả lời được câu hỏi “Làm
sao biết, đối với Chú Cóc, cái ao mà Chú nhảy vào là
ao cũ?”
Đoạn Thơ Mới
Khi bài viết này
còn chưa xong, anh Thái Hưng Nguyễn, cũng vẫn câu hỏi cũ,
đã đưa ra một “đoạn thơ” mới:
Đầm hoang
Con Cóc nhảy vô
Nước té vang.
Tương tự như
trên, đoạn này có thể gọi là Thơ Thiền.
Kết Luận
Theo tôi, đây là
cuộc tranh luận bổ ích. Nhờ cuộc tranh luận về “Thơ
Con Cóc” này tôi đã có cơ hội nhắc đến hai định
nghĩa Thơ mà tôi cho là phù hợp với cách nhìn nhận Thơ
Ca hiện nay. Dĩ nhiên lập luận của tôi trong bài viết
chưa phải là kết luận chung cuộc. Sẵn sàng đón nhận
ý kiến, phê bình khác của bạn đọc.
Phạm Đức Nhì
nhidphạm@gmail.com
phamnhibinhtho.blogspot.com
CHÚ THÍCH:
1/ Kim Kũ Y: Thơ
Xưa Mà Vẫn Mới. Nguyễn Khôi, newvietart.com
No comments:
Post a Comment