NHẠC VÀNG 1954-1975 ở Miền Nam
LÊ THIÊN MINH KHOA
Phác thảo bìa cuốn sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”- Lê Thiên Minh Khoa.
Là dòng nhạc trữ tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ sau 1954 với các bài hát được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của boléro, rumba, ballade, slow rock…, phổ biến nhất là bolero được hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm của một con người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân…
NS Hoàng Thi Thơ
Ba đề tài chủ yếu phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc: Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng)…
Ở miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi người ta dùng từ “nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình dân” để chỉ dòng nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến từ đầu thập niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc vàng" từ Trung Hoa dịch từ "huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng lúc đó đang phổ biến ở Thượng Hải.
Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê Trọng Nguyễn, Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều thu ấy từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh với hai bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong hơn 2 thập niên, ông viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu thích như: Thành phố buồn, Nhạc rừng khuya, Nắng đẹp miền Nam, Bài Tango cho em, Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết theo mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình mẹ, Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói, Tình vẫn chưa yên, Tình thiên thu…
Còn Lê Trọng Nguyễn thành công ngay từ ca khúc bolero đầu tiên là Nắng chiều cũng viết năm 1952, là một bản nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn được biết đến ở Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm… thường được xếp vào dòng nhạc tình khúc.
Trúc Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu tay là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết năm 1957, kế đến là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959)... đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là Tàu đêm năm cũ viết vào đầu thập niên 1960, Sau đó, là khoảng 70 ca khúc được phổ biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa, Đêm gác trọ, Đêm tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều cao nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng cũ…
Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng... Năm 1955, ông tái lập ban nhạc Lửa Hồng và sau đó cho ra mắt ban Nhạc Vàng thuộc đài phát thanh rồi đài truyền hình Sài Gòn để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như Anh Bằng lập ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc Chánh lập ra hãng Shotguns để phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến".
Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này là: Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài Linh, Hoài An, Phạm Thế Mỹ, Mạnh Phát, Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng, Hàn Châu, Y Vân, Vinh Sử, Thanh Sơn, Anh Việt Thu, Anh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút hiệu ghép của Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân), v.v...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh, Anh Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung Chỉnh, Giang Tử, Minh Hiếu, Trúc Mai, Hà Thanh, Ngọc Minh, Phương Dung, Anh Khoa, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Băng Châu, Thái Châu, Nhật Trường (tức NS Trần Thiện Thanh)... Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn Văn Đông, Phạm Thế Mỹ, Song Ngọc, Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về…
Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở các giai đoạn âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công chúng bình dân nhiều thế hệ.
(Kỳ tới: Nhạc trẻ 1960-1975 ở Miền Nam).
LÊ THIÊN MINH KHOA
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM”- nghiên cứu, nhận định- Lê Thiên Minh Khoa- trang 46-48, sắp xuất bản, 2018).
-----------------
Nguồn ảnh: Internet và các nhạc sĩ cung cấp.
No comments:
Post a Comment