Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, February 13, 2015

TÔN TẪN, BÀNG QUYÊN - Phiếm luận Chu Vương Miện

Tác giả Chu Vương Miện


TÔN TẪN, BÀNG QUYÊN
Phiếm luận Chu Vương Miện

Hai nhân vật thượng thặng võ lâm giang hồ này xuất hiện và cuối thời Chiến Quốc (vào khoảng cuối thế kỷ thứ ba trước công nguyên). Những pho tác phẩm có liên hệ xa gần đến hai nhân vật này là những tác phẩm trường giang đại hải tiểu thuyết như Oanh Liệt Xuân Thu gồm ba cuốn, kế đến là Chung Vô Diệm ba cuốn, sau chót là Phong Kiếm Xuân Thu có một cuốn và chỉ chuyên viết về ân oán giang hồ giữa hai nhân vật Tôn Tẫn và Bàng Quyên mà thôi, y như cuốn La Thông Tảo Bắc về đời nhà Đường nhưng chỉ viết về một nhân vật La Thông con trưởng của tướng La Thành. Chúng tôi đọc những pho sách này trên sáu mươi năm rồi và sau này cũng không có thì giờ đọc lại, thành ra đoạn nhớ đoạn không, tam sao thất bổn. Nhân có vị thân hữu Giáng Ngọc viết một bài biên khảo về "Kế Sách" tức "Tam Thập Lục Kế, Tẩu Vi Thượng Sách", sợ độc giả khó tiếp thu, nên chúng tôi phải gia công viết thêm bài viết này để bổ sung cho bài viết của thân hữu Giáng Ngọc.
Qua các tác phẩm về thời nhà Đông Châu thì bộ truyện vài ngàn trang mang tên là Đông Châu Liệt Quốc gần như quá đầy đủ nhưng lại quá giản đơn, đọc chơi thì không sao, nhưng dùng làm tài liệu tham khảo để khảo cứu thì quá ngắn. Những cuốn khác như Chung Vô Diệm, Oanh Liệt Xuân Thu, Phong Kiếm Xuân Thu thì lại vượt qua giai đoạn giản kép (tức là rất ư là lòng vòng và dư thừa).
Chuyện là vầy, Tôn Tẫn là người con nuôi của nước Tề, đời trước mẫu thân của Tôn Tẫn là Yên Đan công chúa, con của vua nước Yên (đất riêng ở Yên Kinh Hà Bắc bây giờ là Kắc Kinh Bắc Bình), phu quân của công chúa là phò mã Tôn Tháo nguyên soái của nước Yên (con ruột của Tôn Võ Tử), hai người sanh đặng ba người con trai. Tôn Long và Tôn Hổ là hai con trai lớn theo cha tòng quân giúp nước. Khi nước Tề và nước Yên có chiến tranh thì tư lệnh quân của nước Tề là Hoàng Hậu Chung Vô Diệm vốn là sao Mão Doãn Tinh trên thượng giới đầu thai, kẻ đối địch với bà là công chúa Yên Đan lúc đó đang mang bầu. Hoàng Hậu Chung Vô Diệm bấm tay biết là quý tử, vì Tôn Võ Tử sẽ đầu thai trở lại vốn là một tinh đẩu Võ Khúc Tinh xuống thế sau này sẽ là một nhân vật tót chúng nhân tuyển cho giai đoạn chót thời Đông Châu, và bà Chung Vô Diệm đưa ra một yêu sách: Nếu bà bị thua, thì muốn làm gì thì làm, nhưng nếu bà thắng thì đứa nhỏ trong bụng công chúa khi sanh ra phải trao cho bà mang qua nước Tề nuôi làm con nuôi, thế là hai vị nữ lưu chủ soái ô kê kẻ gíao người kiếm, qua lại vài chiêu thì Hoàng Hậu Chung Vô Diệm mang dây Cổn Tiên Thằng trong ba lô quăng lên không trung và hô "biến", thế là Yên Đan công chúa nước Yên bị trói gô lại, Chung Vô Diệm đến gần mà nói rằng: Thật là có lỗi đắc tội với công chúa quá, nếu công chúa chịu khó tìm hiểu ba chữ Chung Vô Diệm thì đâu có chuyện hơn thua sự cố này xẩy ra?
Yên Đan công chúa đựơc cởi trói hú hồn hú vía hỏi lại:
-Vậy ba chữ Chung Vô Diệm có nghĩa là cái thứ gì ?
-Là người đi tới đâu mà có Núi Lửa (tức Hỏa Diệm Sơn) thì ngay lập tức bị dập tắt mà sau này mãi mãi không còn núi Lửa ở chốn đó phun lên nữa. Và hai vị soái kết nghĩa nhận nhau làm chị em, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu.
Bây giờ xin trở lại lý lịch Bàng Quyên, người nước Ngụy. Nước này nguyên ngày trước là nước Tấn, sát với Tần và kết nghĩa Tấn Tần, là một nước cực lớn phía bắc, nhưng bị ba đại thần chuyên quyền chia nước Tấn ra làm ba khúc. Khúc một nửa tỉnh Thiểm Tây thuộc quyền họ Hàn lập ra nước Hàn, tỉnh Sơn Tây thuộc họ Triệu lập ra nhà Triệu, và phía dưới là tỉnh Hà Nam vốn là Đông Kinh thuộc họ Ngụy lên thành lập nước Ngụy, sau vùng đất này sửa lại là nhà Lương. Gia đình của Bàng Quyên cũng thường thường. Bàng Quyên và Tôn Tẫn trên đường tầm sư học đạo có kết nghĩa kim lan là xuống chảo dầu lên núi đao vẫn có nhau, khi hai người tìm đến được Động Quỉ Cốc vào yết kiến tổ sư gia là Vương Hủ (tên tục cúng cơm), còn tên giang hồ là Quỉ Cốc Tiên Sinh hay Vương Thoàn lão tổ, tiên sinh bèn phán như thế này:
- Lão thì chỉ dậy cho những người thông minh mà thôi, chớ cù lần quá thì lão không dậy. Vậy thì ngay bây giờ lão thử tài trí thông minh lanh lẹ của hai trò. Lão đang ngồi đọc sách tại hàng hiên, hai người tìm cách nào để lão phải ra tận ngoài cổng Cốc, thì kể như là qua được một cửa ải.
Bàng Quyên nói ngay :
- Nói như vậy là sư phụ đã có chuẩn bị từ trước, không có cách nào làm sư phụ di chuyển ra ngoài cổng Cốc được,   nhưng con có một cách, nếu sư phụ đi ra ngoài Cổng Cốc thì con có cách dụ sư phụ vào trong nhà được.
Thế là Lão Tổ đứng ngay dậy phăng phăng đi ra ngoài cổng Cốc để chờ học trò dụ khị đi vào.
Ba thầy trò ra tới nơi thì Bàng Quyên cười lên hô hố:
- Con đã dụ được thầy ra ngoài ngõ Cốc rồi.
Vương Hủ cười lên hô hố ô kê con gà quay tức thì, sau đó thì tới phiên Tôn Tẫn.
*
Tổ sư gia Vương Hủ nhìn xuống thung lũng toàn đá tai mèo và hoa dại, nhìn lên thì mây trắng bay, ba người đứng nhìn trời nhìn đất rồi phát biểu:
- Lúc nẫy Bàng Quyên đã làm xong nhiệm vụ, bây giờ đến phiên Tôn Tẫn, vậy theo ý của trò thế nào là Nhân Quả theo quan niệm của Phật Gia.
Tôn Tẫn khom mình vái sư phụ một cái rồi khoanh tay bẩm:
- Đạo Phật, Đạo Khổng, Đaọ Lão cùng một thời gian xuất thế, nhưng chúng ta là người Chung Quốc có thể biết về Đạo Khổng và Đạo Lão chớ Đao Phật viết bằng chữ Pali mà ở mãi tận bên xứ Nepal thuộc Ấn Độ, hai nước lại không có giao lưu giao kéo gì cả, với nữa, chữ Ấn Độ chúng ta có ai đọc và hiểu đâu.
Vương Tổ Sư Gia nói :
- Thầy dậy toàn là tuyệt chiêu, học xong là trèo lên đầu thiên hạ mà ngồi, thành ra học trò của thầy không cần đọc cũng hiểu, chớ ai ai cũng hiểu về Binh Pháp, về Chiến Thuật Chiến Lược thì còn đánh chác gì được nữa. Thầy và các con đều không biết chữ Pali và cũng không hiểu gì về Đạo Phật, vì không ai biết cả nên thầy mới hỏi đệ tử để xem kiến thức của đệ tử ra sao, chớ ai cũng đọc, cũng biết, cũng am tường thì thầy hỏi quả là quá thừa rồi. Thầy ví dụ như vầy, Khổng Tử là to con cũng chết, Mạnh Tử là đang khỏe mạnh cũng chết, Trang Tử là đi đâu cũng trang điểm cho đẹp cũng chết. Sư tử là thầy cũng chết và đệ tử là học trò cũng chết, đại khái là như thế.
Tôn Tẫn hít một hơi dài, rồi thong thả nói :
- Đây là ngu ý của đệ tử, thầy bảo thì phải tuân lời, không được từ chối, theo đệ tử thì nghĩa đen nhân quả nó như thế này, khi người ta làm đám hỏi và đám cưới cho con cái trong nhà thì thường có những chi tiết giống nhau, có nhiều quà bánh rượu trà, heo quay dê quay. Những thứ quà lễ này không được để lộ thiên, mà phải để vào trong một cái hộp, hay là cái quả. Cái quả này có hai phần, phần đáy quả là để đồ quà bánh rượu vào rồi đậy nắp quả lại, trên quả thì chùm khăn đỏ tua vàng, nhưng nhân nào quả đó , vì cái nhân khác nhau, như bánh kẹo, mứt hồng trà thì quả thấp, cái nắp thấp, còn cái quả đựng rượu thì phải cao hơn một chút vì chai rượu thường là cao, và cái quả chứa con heo, con dê không phải là hình tròn, mà là một cái khay dài hình chữ nhật, trên đó để vừa con heo hay con dê, nắp quả thường là tấm vải đỏ, mà cần hai người khiêng cho nó trang trọng hoành tráng, còn các quả nhỏ thì có người bưng 1 tay, người bưng hai tay tùy theo loại, như vậy cái nhân bên trong như thế nào thì cái quả bên ngoài nó y như thế đó cho cân xứng.
Tổ sư gia Vương Thoàn nghe đệ tử Tôn Tẫn nói xong trầm ngâm một lúc rồi nhìn Bàng Quyên mà nói :
- Bàng Quyên, con có nghe rõ điều mà sư huynh của con vừa nói không? Con có cần ghi chép lại để làm kinh nhật tụng không? Thầy nhắc lại một lần nữa là con nhớ câu này nằm lòng: Nhân nào thì quả nấy, gieo cái gì thì gặt cái nấy. Kể từ bây giờ trở đi chúng ta là thầy và trò ...
                                                                  CVM



                                     

No comments: