Tôi
sinh ra và lớn lên ở Quảng Trị, vùng đất khó khăn nhất của đất nước,
đặc biệt là trong hai cuộc chiến. Người nông dân Quảng Trị "Đập đất chai
tay, nắng hè phỏng trán" trên vùng đất "cày lên sỏi đá", cuộc chiến
nhiều ngày làm cho Quảng Trị càng hoang tàn. Năm 1972 trong tác phẩm Mùa
hè đỏ lửa nhà văn Phan Nhật Nam đã nói về những người dân Quảng
Trị: "...rất nghèo, quá nghèo đến nỗi tên gọi của người Quảng Trị cũng
không có chữ để lót..." như Đoàn Luyến, Đoàn Huệ, Trương Giáo, Trương
Ũy... Về sau tôi mới nhận thấy cả những vị lãnh đạo cũng "không có gì để
lót" như Đoàn Khuê, Đoàn Thuý, Lê Duẫn...Sau nầy khi tái lập tỉnh Quảng
Trị cũng tự giới thiệu là tỉnh "Có hai thị xã, hai con sông và... hai
Nghĩa Trang", một địa phương chịu quá nhiều thiệt thòi trong chiến
tranh.
Cái
khổ thường xuyên từ bao đời của Quảng Trị là thiên tai, bão lũ, hình
như không năm nào không có. Chúng tôi ngay từ lúc nhỏ đã biết cách
phòng chống, đứa nào cũng biết bơi, và bơi rất tốt, nếu không biết thì
không sống đến ngày nay, năm học nào cũng có vài đứa bạn ra đi theo Hà
Bá.
Vùng
đất Quảng Trị có người Việt từ năm 1558 ( Khi Nguyễn Hoàng tiến về
phương Nam mở cỏi), có lẽ từ đó đến nay có quá nhiều cuộc chiến tranh,
từ các cuộc chiến tranh giành quyền lợi giữa các dòng họ đến các cuộc
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trong cuộc chiến tranh Việt Nam thời
hiện đại, đây là nơi cuộc chiến diễn ra ác liệt nhất, dấu vết để lại quá
kinh hoàng khi ta đi qua Quảng Trị nhìn những nghĩa trang, nghĩa địa
của vùng này.
Năm
2009, sau 37 năm tôi trở về Quảng Trị, nơi đầu tiên tôi đến là Mẹ La
Vang, đây là nơi có nhiều dấu ấn tuổi thơ tôi tại vùng đất Quảng Trị.
Thánh địa La Vang ngày nay đã được khôi phục nhưng dấu vết chiến tranh
còn quá nặng nề. Nếu nhìn La Vang với góc độ người làm kinh tế thì đây
chính là một địa điểm du lịch hấp dẫn với hàng triệu khách có Đạo trong
và ngoài nước, nhưng hiện nay chưa được quan tâm đúng mức.
Dân
Quảng Trị có truyền thống hiếu học, có lẽ không phải học để làm gì ghê
gớm nhưng phải học để thoát nghèo, học để vươn lên trong cuộc sống. Đây
là điều kiện thuận lợi nhất để Quảng Trị khôi phục và phát triển kinh
tế.
Thành
phố Đông Hà, thủ phủ của Tình hiện nay khá hiện đại và đẹp. Nguyên nhân
chính là vùng đất bị tàn phá hoàn toàn và làm lại toàn làm mới cho nên
rất đẹp. Tuy nhiên thành phố phát triển mang tính "Kế hoạch" hơi nặng,
chưa có chút bùng phát của một nền kinh tế thị trường, chưa thấy các
trung tâm công nghiệp lớn xuất hiện.
Nét văn hoá truyền thống của Quảng Trị là rất quan tâm đến việc
xây dựng mồ mã cho người đã khuất, người sống như thế nào thì người
chết cũng vậy, cho nên kinh tế càng phát triển thì mồ mã cũng được quan
tâm nâng cấp, ông Việt kiều và ông Việt Cộng thi nhau nâng cấp mồ mã,
lăng tẩm, đình miếu ... cho nên chúng ta thấy ở đây có những ngôi mộ bạc
tỷ, không biết hậu quả sẽ như thế nào ?
Tôi trở về làng cũ, làng Đại Độ, đi dọc theo sông Hiếu Giang, con sông mà ngày xưa khi còn đi học chúng tôi thường xuyên vui chơi nô đùa, ngày nay trở lại quá nhiều thay đổi, không còn dòng nước trong lành như ngày xưa. Làng cũ không còn luỹ tre, không có những "tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ reo", mà cả cái tên cũng sắp biến mất, phường, khu phố thay cho làng xã. Trong lịch sử nhiều nơi trong nước và trên thế giới, quá trình chuyển đổi từ làng xã thành phố thị là một điều tất yếu, nhưng khi đổi người ta cũng để lại tên phố, tên phường như tên của làng xã trước đây, nhất là các làng xã có truyền thống khá lâu đời như các làng ven sông bờ Bắc sông Hiếu (Theo Hoàng Hữu Phong). Thế nhưng! Thế nhưng!
Với truyền thống chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai để bảo vệ
cuộc sống chắc chắn trong tương lai không xa Quảng Trị sẽ trở thành một
cửa khẩu quan trọng tiến ra biển Đông của vùng đất Miền Trung.
Đồng Nai, 2009
Đoàn Luyến
Thạc sĩ sử học
Đoàn Luyến
Thạc sĩ sử học
dmcdoanluyen@yahoo.com.vn
No comments:
Post a Comment