NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ
THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (KÌ 16)
(44) 春眠不覺曉 [Xuân miên bất giác hiểu] (Giấc ngủ mùa xuân quên mất sáng. Muốn chỉ người con gái nằm ngủ đầy vẻ xuân)
Thành ngữ này có xuất xứ từ bài Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên đời Đường. Nguyên văn như sau:
春眠不覺曉,
處處聞啼鳥。
夜來風雨聲,
花落知多少?
Xuân hiểu
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu?
Dịch nghĩa:
Say sưa giấc xuân không biết trời đã sáng
Khắp nơi vang lên tiếng chim hót
Đêm qua có tiếng gió và mưa
Hoa rụng không biết bao nhiêu?
Giấc xuân, sáng chẳng biết,
Dịch thơ:
Khắp nơi chim ríu rít.
Đêm nghe tiếng gió mưa,
Hoa rụng nhiều hay ít?
(45) 看朱成碧思 [Khán chu thành bích] (Nhìn đỏ thành xanh. Nhận không rõ. Không phân biệt rõ. Hoa mắt)
Thành ngữ này xuất xứ từ bài thơ Như Ý Nương của Võ Tắc Thiên nữ thi sĩ đời Đường. Nguyên văn:
如意娘
看朱成碧思紛紛,
憔悴支離為憶君。
不信比來長下淚,
開箱驗取石榴裙。
Phiên âm:
NHƯ Ý NƯƠNG
Khán chu thành bích tứ phân phân
Tiều tụy chi li vị ức quân
Bất tín tỉ lai thường hạ lệ
Khai sương kiểm thủ thạch lựu quần.
(Dịch nghĩa:
Nàng Như Ý. Trông màu đỏ hóa thành màu xanh trong lòng bối rối.
Thân hình tiều tụy đi vì nhớ chàng.
Nếu chàng không tin thiếp đã bao lần nhỏ lệ.
Thì chàng hãy mở chiếc rương đếm những chiếc quần thạch lựu [đã thấm đẫm nước mắt nàng]).
Dịch thơ (Hai bản dịch của Nguyễn Ngọc Kiên)
Bản dịch 1
Nhìn đỏ thành xanh thiếp nhớ chàng
Xác thân tiều tụy đến võ vàng.
Chẳng tin thiếp đã bao lần khóc
Hãy đếm quần hồng ở đáy rương!
Bản dịch 2
Nhìn xanh hóa đỏ võ vàng
Xác thân tiều tụy nhớ chàng khôn nguôi.
Bao lần thiếp khóc chàng ơi,
Hãy xem, lệ ướt quần nơi đáy hòm!
(46) (46) 打草驚蛇 [Đả thảo kinh xà] (Động cỏ làm rắn bỏ chạy / động cỏ làm rắn sợ )
Thành ngữ này có xuất xứ từ điển tích như sau:
Thời Thập Quốc Ngũ Đại, Nam Đường có một người tên là Vương Lỗ, giữ chức huyện lệnh ở huyện Đương Đô. Vương Lỗ lòng tham không đáy, tham ô nhận hối lộ khắp vùng. Một hôm, một toán đông bà con kéo đến trước cửa huyện.
Vương Lỗ ngầm giật mình cho là bà con đến tìm ông để tính nợ. Vốn là bà con cùng kí tên đệ đơn tố cáo Trưởng Bạ thuộc tay chân của ông ta.
Vương Lỗ nhận tờ đơn tố cáo và chỉ thấy trên giấy liệt kê rất nhiều tội trạng của tên Trưởng Bạ này. Bà con kiên quyết yêu cầu Vương Lỗ nghiêm xử theo pháp luật tên Trưởng Bạ. Tội trạng của tên này dường như hoàn toàn giống với những việc mà Vương Lỗ cũng đã làm.
Ông ta vừa xem, toàn thân run lên, không biết nên xử vụ án này thế nào. Một cách không tự chủ, Vương Lỗ đã phê lên tờ đơn tố cáo 汝虽打草,吾已蛇惊 [Nhữ tuy đả thảo, ngô dĩ kinh xà]. (Nghĩa là: Các người tuy khua trên cỏ nhưng ta như con rắn trong cỏ nên đã kinh sợ).
Bà con làm sao mà biết được rằng họ tố cáo Trưởng Bạ cũng là đã cảnh cáo Vương Lỗ rồi.
Thành ngữ ĐẢ THẢO KINH XÀ được rút gọn từ câu Nhữ tuy đả thảo, ngô dĩ kinh xà.
Nay dùng để ví làm việc không cẩn thận, để đối phương phòng bị. Cũng dùng để chỉ làm một việc dẫn đến ảnh hưởng động chạm việc khác có liên quan.
Về sau, thành ngữ này được dùng với nhiều nghĩa:
1. Trừng phạt người này, để cảnh cáo kẻ khác.
2. Hành động thiếu thận trọng, sở hở, khiến đối phương đào thoát.
3. Chưa đủ sức để diệt trừ được kẻ ác đã nôn nóng, lớn tiếng, khiến kẻ ác được phòng bị và quay trở lại làm hại chính mình.
4. Biết kẻ ác đang ẩn nấp đâu đó, nhưng không đủ sức diệt trừ, nên đánh động để đối phương biết mà chuồn đi. (Kế này hay được áp dụng trong thực tế: Khi phải lội vào đám cỏ cây rậm rạp, người ta thường xua đập, tạo ra tiếng động lớn, để nếu có rắn trú ẩn, thì chúng sẽ trườn đi)
(Theo Hoàng Tuấn Công).
“Đả thảo kinh xà” cũng là một kế hay. Tuy nhiên, với rắn độc thì đánh ra đánh, đập ra đập, vì dân gian cho rằng, giống rắn độc hay trả thù. Đánh rắn mà không chết, nó sẽ quay lại báo thù, hậu hoạ khôn lường. Thế nên có câu “Đả xà bất tử, hậu hoạn vô tận” [打蛇不死後患無盡]. Tương đương với thành ngữ này, người Việt còn nói “ Rút dây động rừng”, “Rung chà cá nhảy”
Không biết nguyên đồng chí Trịnh Xuân Thanh bị "đánh" hay chỉ bị "đập", mà đào tẩu êm ru như vậy. Có phải “Đả thảo kinh xà” hay không? Nếu có thì rơi vào nghĩa thứ mấy nhỉ?
(47)南柯一梦 [Nam Kha nhất mộng] (Giấc mộng Nam Kha)
Trong tiếng Hán có một câu thành ngữ “Giấc mộng Nam Kha”, được dùng để hình dung cõi mộng hoặc một không tưởng không thể thực hiện được của một người nào đó. Thành ngữ này có nguồn gốc từ cuốn tiểu thuyết “Tiểu sử Nam Kha Thái Thú” của tác giả Lý Công Tá đời Đường Trung Quốc thế kỷ 9 công nguyên.
Một người tên Thuần Vu Phân, ngày thường thích uống rượu. Trong sân nhà ông có một cây hòe lớn rễ sâu cành rậm, một đêm giữa hè, trăng tỏ sao thưa, gió thổi hiu hiu, chỗ dưới cây hòe là một chỗ hóng mát tốt.
Vào ngày sinh nhật của Thuần Vu Phân, người thân và bạn bè đều đến chúc thọ, ông vui mừng quá, và uống nhiều chén rượu. Sau khi người thân và bạn bè về nhà, Thuần Vu Phân ngà ngà say hóng mát dưới cây hòe, bất giác ngủ quên.
Trong giấc mơ, nhận lời mời của hai sứ thần, Thuần Vu Phân bước vào một lỗ cây. Trong lỗ có thời tiết tốt đẹp, là một thế giới riêng biệt, có nước Đại Hòe. Lúc đó, kinh thành đang tổ chức cuộc thi lựa chọn quan chức, ông cũng đi đăng ký. Ông đã thi ba cuộc, viết văn rất suôn sẻ. Khi công bố kết quả cuộc thi, ông đứng đầu bảng. Tiếp theo nhà vua tổ chức thi đình. Nhà vua nhìn thấy Thuần Vu Phân vừa đẹp trai, vừa tài ba lỗi lạc, nên hết sức ưa thích, rồi chọn ông là trạng nguyên, và gả công chúa cho ông. Trạng nguyên trở thành phò mã, nhất thời việc này được truyền thành giai thoại ở kinh đô.
Sau khi lấy nhau, vợ chồng hết sức đằm thắm. Không lâu, Thuần Vu Phân được nhà vua cử đến quận Nam Kha làm thái thú. Thuần Vu Phân cố gắng làm việc và quý mến nhân dân, thường đến địa phận quận Nam Kha điều tra nghiên cứu, kiểm tra công tác của bộ hạ, công tác hành chính ở các địa phương đều rất liêm khiết và có trật tự, nhân dân địa phương hết sức khen ngợi. Ba mươi năm trôi qua, thành tích của Thuần Vu Phân đã nổi tiếng khắp toàn quốc, và ông đã có 7 con, 5 trai 2 gái, cuộc sống rất hạnh phúc. Nhà vua mấy lần muốn điều động Thuần Vu Phân về kinh thành đảm nhiệm chức vụ cao hơn, nhưng sau khi được biết, nhân dân địa phương kéo nhau lên phố, ngăn lại xe ngựa của thái thú, thỉnh cầu ông tiếp tục làm quan thái thú quận Nam Kha. Thuần Vu Phân cảm động trước sự yêu mến của nhân dân, đành phải lưu lại, và trình thư lên nhà vua giải thích rõ tình hình. Nhà vua rất vui mừng trước thành tích công tác chính trị của ông, và ban thưởng cho ông nhiều vàng bạc châu báu.
Một năm, nước Thiện La cử quân đội xâm phạm nước Đại Hòe, các tướng quân nước Đại Hòe thừa lệnh chặn đánh địch, bất ngờ bị đánh bại nhiều lần. Tin thua trần truyền tới kinh thành, nhà vua bị choáng, khẩn cấp triệu tập quan chức văn võ thương lượng cách đối phó. Nghe nói quân đội mình nhiều lần bị đánh bại ở tiền tuyến, địch hết sức mạnh mẽ đã tiến gần kinh thành, các đại thần sợ hãi đến nỗi tái mặt, đại thần này nhìn đại thần kia, đành chịu bó tay.
Nhìn thấy thần sắc của đại thần, nhà vua hết sức tức giận và nói: “Nhà ngươi ngày thường ăn ngon ở nhàn, hưởng thụ hết vinh hoa phú quý, một khi nhà nước gặp khó khăn, nhà ngươi lại trở thành quả bầu không có mồm, hèn nhát khiếp trận, cần nhà ngươi có tác dụng gì?”
Tể tướng chợt nghĩ tới ông Thuần Vu Phân, thái thú quận Nam Kha có thành tích công tác xuất sắc, bèn giới thiệu với nhà vua. Nhà vua ra lệnh ngay, điều động Thuần Vu Phân điều khiển quân đội tinh nhuệ toàn quốc đánh địch.
Sau khi nhận được mệnh lệnh của nhà vua, Thuần Vu Phân lập tức dẫn quân xuất chinh. Nhưng ông không biết gì về phép dùng binh, vừa giao chiến với quân địch, đã bị thua liểng xiểng, chiến sĩ và ngựa bị tổn thất nặng nề, ông xuýt nữa bị bắt. Được tin này, nhà vua hết sức thất vọng, ra lệnh truất bỏ mọi chức vụ của ông, giáng xuống làm bình dân, và đưa về quê. Thuần Vu Phân nghĩ tên tuổi anh hùng của mình bị phá hủy hoàn toàn, hết sức xấu hổ và tức giận, kêu một tiếng thật to, ông tỉnh dậy từ giấc mơ. Ông theo cõi mộng đi tìm nước Đại Hoè, hóa ra dưới cây hòe có một lỗ con kiến, những kiến đang cư trú ở đó.
NGUYỄN NGỌC KIÊN
..........
(Theo China ABC)
Ngày nay, “Giấc mơ Nam Kha” có khi cũng chỉ đời người như giấc mơ, phú quý quyền thế đều là hư ảo.
No comments:
Post a Comment