Tôi đã đọc
hết bốn mươi lăm bài thơ
với biết bao nỗi niềm
anh gửi gắm trong tập “Trầm ngâm thế
kỷ” của anh.
Xin tri ân tấm chân tình và niềm mặn nồng đối với thi ca đối với thi hữu của anh dành cho quý độc giả (trong đó có tôi), khi mà, giữa những ngày bao người đều tất bật, lo toan với bộn bề của cuộc sống, lo toan cho những tính toán của riêng mình để đón xuân Kỷ Sửu, thì anh lại dành cho tôi một món quà hết sức bất ngờ và cảm động: Tập thơ “Trầm ngâm thế kỷ”, để dành tặng trong những ngày đầu năm mới.
Tôi được đọc ba tập thơ của anh: Tập Ngọn cỏ thiên đường; Lửa đêm và Trầm ngâm thế kỷ (Riêng tập Mảnh đời riêng tôi chưa được tiếp cận). Qua mỗi tập thơ, mỗi bài thơ, tôi cảm nhận trong anh luôn man mác tình quê của người con Quảng Trị xa xứ, luôn thấm đượm nỗi trăn trở, suy tư, hoài vọng về con người, cuộc đời, hạnh phúc, khổ đau và sâu thẳm hơn nữa là sự vô vi, vô thường của đạo pháp, đạo làm người.
Những trăn trở, suy tư cho những số phận, những kiếp người có thể độc giả đă dành nhiều bài viết để cùng anh cảm nhận và chia sẻ…Với tư cách là một người mến mộ thơ anh, tôi xin phép được cùng anh nói về chữ ĐẠO trong tập Trầm ngâm thế kỷ này.
Đọc tập thơ của anh, đă để lại trong tôi bao nỗi niềm, những hoài niệm xa xưa; Con người, cuộc đời phút chốc qua mau như chiếc lá rơi, vó ngựa qua song cửa…tất cả rồi sẽ đi qua. Đọc thơ anh tôi nghe mặn đắng số phận những kiếp người; nghe sắt se từng cơn gió đêm thổi vào hồn những thân phận đang măi trong “cuộc vật vă nhân sinh”, trầm ngâm, tưởng tiếc!
Trong tập thơ này, Anh không dùng những chữ “Từ bi”, “Nhân ái”, “Nhiệm mầu”, “Vô vi”, “Vô thường”, “Vô thỉ”, “Tâm không”…để nói về triết lý nhân sinh quan của đạo pháp, mà bằng những cảm nhận rất đời thường đang hiện hữu hàng ngày trong cuộc sông của mỗi chúng ta với những câu từ không cần gọt dũa, trau chuốt để nói lên triết lý cao siêu đó.
Nếu trong tập Lửa đêm anh dùng hình ảnh:
“Trăng và nước giao duyên từ vô thỉ
Đừng xẻ ḍòng sóng dội mảnh trăng tan.
Hăy giữ lấy làn nước êm dòng nước
Và thảnh thơi như gió núi mây ngàn”.
(Trăng và nước)
Hay:
“Ta chạy theo ngày đuổi theo đêm”
để cuối cùng chợt nhận ra
“Thương nhân sinh lưu chuyển kiếp vô thường”.
(Đi tìm nàng thơ)
Cho đến
“ Đêm ba mươi hoa nở cánh nhiệm mầu”…;
“ Bóng mẹ cha từ bi”…;
“Em vẫn tự gieo trồng, trên mảnh ruộng đầy nhân ái”…;
“Nụ cười thoáng chút vô vi,
Như đùa- như thật- Nửa bi- nửa hài”…;
“ Hai tay buông lỏng sự đời,
Tâm không nhẹ bước xa rời buồn vui”…
Thì đến tập Trầm ngâm thế kỷ, tôi có cảm nhận rằng cũng với bao thân phận như vậy, những kiếp người trong chốn nhân sinh này, anh tiếp tục có sự hoá thân để cảm thông, chia sẻ và đau đáu niềm đau của một người “lạc bước giữa chốn nhân gian”. Những cảm xúc đó, hình như đă bị “dồn nén đến tận cùng” thì nay lại bỗng “rùng mình thoát xác” để những tứ thơ vượt ra ngoài ý niệm của con người “vượt lên thời gian và không gian mà thường tại”.
Có lẽ trong thế giới nội tâm, anh đă cảm nhận mọi sự thất bại hay thành công trên thế gian đều bắt nguồn từ chữ TÂM. Bởi tâm là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi hạnh phúc và bất hạnh. Bởi hết thảy những danh vọng, tiền tài mà con người theo đuổi suốt đời (theo anh cảm nhận) là hư giả, bèo bọt; như giọt sương mai, như hoa tàn héo rơi văi trên mặt đất, như gió lạnh ban đêm. Có lẽ anh đă cảm nhận được cái tinh túy ấy trong ý thơ của vua Trần Nhân Tông:
“Thị phi niệm trục tiêu hoa lạc
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn
Hoa tàn vũ tinh sơn tịch mịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn”
(ý nghĩ chạy theo thị phi như hoa rơi ban sớm/ Tâm chạy theo danh lợi như theo mưa đêm lạnh/ Hoa rụng hết, mưa tạnh, còn lại cảnh núi non vắng lặng/ một tiếng chim kêu, xuân lại tàn).
Nếu vậy, xem ra sống giữa vòng danh lợi, hào nhoáng mà Tâm vẫn an trú trong tự tại là điều đáng khâm phục rồi?.
Chính vì vậy mà những phận người
“Vô tư như gió,
hiền hoà như đất,
giận hờn như lửa,
và đục trong như nước”
tiếp tục được anh hoá thân một cách sống động ở tập thơ này.
Này nhé:
“Thắp lên một ngọn lửa
Bóng đêm sẽ tan dần
Ta đi vào núi thẳm
Sau lưng đời phù vân”
(Bài thơ thứ Hai).
Hay
“Áp vào ngực cha khét nắng,
Vai mẹ chai sần nhiều buổi chợ xa
Xô đẩy va đập
Mặt chạm đất
Lưng hiến cho trời
Mong mây tích tụ vĩnh hằng
Ấm ngày lăn lóc
Vật vã luân hồi hành khất đó đây”
(Bài thơ thứ 9)
vẫn cảm thấy gần gũi, sẻ chia, hoá mình vào kiếp người một cách sâu đậm và thực tế hơn so với:
“Trong đêm tối mênh mông
Tôi xin làm ngọn lửa
Thắp lên điều tan vỡ
Những khát khao yêu thương”
(Lửa đêm)
Hay:
“Chiếc lưng trần của cha
Cõng đời con không mỏi
Vầng trăng tròn đêm tối
Mẹ soi đường con đi
Bóng mẹ cha từ bi
Đỗ dài theo năm tháng”
(Ơn nghĩa)
Một
vài minh hoạ có thể thấy “Người
hành khất lăng tử” kia đă “lớn lên” rất nhiều, đă không còn vội
vă, đă không còn cảm nhận hiện thực
mà đă thấu hiểu đến những
khía cạnh của bản chất
con người, sự đời để
hồn thơ không còn thở than, chơi vơi, đau đáu về
một kiếp trầm luân mà tâm hồn
như tĩnh lặng để trầm
ngâm suy nghĩ và cảm nhận.
Cái hay của anh chính là ở chỗ không dùng “thuật ngữ” của đạo pháp mà dùng hình ảnh gần gũi nhất trong mỗi cuộc sống của mỗi kiếp người (mặc dù sự gần gũi có lúc đến trần trụi) để mỗi kiếp người vật vă chốn nhân sinh này nương theo và tìm nơi đó sự an ủi, niềm tin và vượt lên số phận để tiếp tục sống có ích. Đó phải chăng là mục đích cuối cùng của mọi đạo giáo?
Có lẽ vì va chạm khá nhiều vào nỗi niềm nhân thế, “cuộc sống quắt quay hư ảo loạn cuồng” mà làm cho “văn chương rêu mốc”. Những điều đó đă phần nào làm cho những câu thơ anh hơi thiếu chất mượt mà, thiếu những thanh âm trầm bỗng, những ngôn từ được trau chuốt một cách văn chương. Có lẽ chính điều này, mà một số độc giả vốn quen với những dùng văn chương bay bổng, lăng mạn, thiên về niêm luật chưa chia sẻ nhiều với thơ anh? Nhưng dù sao đi nữa, không phải điều này mà làm ảnh hưởng lớn đến phong cách sáng tác của anh.
Xin cầu chúc cho anh tiếp tục dồi dào sinh lực để cống hiến cho thi hữu những vần thơ đời luôn thấm đượm hồn người.
Xuân Kỷ sửu- 2009
Cao
Hoàng Vũ
No comments:
Post a Comment