ĐỐI NGẪU - LÀ MỘT VẺ ĐẸP ĐẶC SẮC, LÀ MỘT TRONG NHỮNG ĐIỀU
KIỆN CẦN VÀ ĐỦ CỦA THƠ ĐƯỜNG LUẬT
*
Tôi được biết, người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một
cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn
nó lên giấy mực. Chưa xong. Người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao
cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp
xỉ số thanh bằng. Nếu ta gọi chữ có thanh bằng là số (+), chữ có thanh trắc là
số (-), thì luật âm dương này thăng giáng bù trừ sát sao đến từng liên thơ, đến
cả bài thơ. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân bằng, có ý nghĩa triết
học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật.
*
- Ý nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối
ngẫu.
Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có đối, thì câu
trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho ý thơ thêm
mạch lạc.
Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ
này như một điều bắt buộc.
*
Từ đầu thế kỷ trước, đối mặt với sự thắng thế của phong trào
thơ mới, Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ thành danh, không nỡ bỏ hẳn thơ Luật
Đường, ông đã sáng tác nhiều bài thơ không đối, chỉ giữ lại có luật hạn câu,
hạn chữ, hạn vận, hạn bằng trắc. Vũ Hoàng Chương xem những bài thơ đó chỉ là
một thực nghiệm. Sau đó, song song với việc sáng tác thơ mới, ông còn sáng tác
nhiều bài thơ luật nghiêm chỉnh khác (như bài đa thủ “Giấc mơ tái tạo”).
*
Chúng ta nay một khi đã gửi hồn cho thể thơ luật Đường thì
đừng có bao giờ bực bội giữa khi đang có hồn thơ lai láng, lại bị nghẽn bởi hai
cặp đối ở hai câu thực, luận và nóng vội cho rằng: làm gì mà phải đối chặt chẽ
vậy.
*
- Đối ngẫu trong thơ đường luật bát cú, thất ngôn, ngũ ngôn
nói tổng quát là có 2 phép: Phép chỉnh đối và phép khoan đối.
Dưới đây chúng tôi xin được trao đổi về 2 phép đối này. Các
ví dụ được nêu ra để phân tích, chúng tôi lấy từ một số bài thơ đã in trong
“Thơ Đường quê lụa” tập 5, NXB Văn hóa Dân tộc, 2008.
*
PHÉP CHỈNH ĐỐI
Nguyễn Thu Hà, người trẻ tuổi nhất của CLB, trong bài “Duyên
quê”, cặp thực, đối như sau:
Anh nắm bàn tay thon ấm áp,
Em cười đôi mắt sáng long lanh.
Thật là chỉnh, thật là chính danh: anh với em, bàn tay với
đôi mắt (Danh từ đối với Danh từ), Thon với sáng (Tính từ đối với nhau), ấm áp
với long lanh (Trạng từ láy đối nhau). Hai câu thơ tình đằm thắm đến thế mà lại
không thấy lả lơi. Thu Hà đã huy động phép đối rất nghiêm để đạt hiệu quả.
*
Hạnh Anh (Đỗ Biện), trong bài “Đêm thu” câu 5,6 đối như sau:
Hoa cúc bâng khuâng ly rượu ngát
Hoa nhài thao thức chút hương phôi.
Cặp đối chính danh này rất nghiêm về thể thức, nhưng lại rất
hào hoa.
*
Cụ Tạ Đăng Viên, ngoại 80, có bài “Tự thọ” rất hóm hỉnh, cụ
có cặp luận:
Kính mắt gà đeo tròng chấp chới
Gậy càng cua chống bước lon ton.
Bằng hai câu đối chặt chẽ, như vẽ nên, như trông thấy một cụ
đại thọ nhanh nhảu hồn nhiên trước mắt ta.
"
PHÉP KHOAN ĐỐI
Để cho một chùm thơ, một tập thơ không bị đơn điệu về hình
thức đối ngẫu, người xưa đã đưa ra nhiều phép đối ngẫu linh hoạt hơn.
*
Phép lưu thủy đối:
Ví dụ:
Còn chăng lời hẹn bên trang sách,
Hay đã tàn theo ánh lửa đèn.
*
Theo quy tắc chiếu chữ thì hai câu này là bất đối. Nhưng lại
xét: Hai câu thơ có cấu trúc ngữ pháp giống nhau; mạch ý câu trên trôi chảy như
nước, được tràn sang câu dưới làm lọn nghĩa cho câu trên. Đó là phép Lưu thủy
đối.
*
Tất cả các liên thơ mà câu trên bắt đầu bằng mấy chữ tương
tự như: còn chăng…, đã sinh…, bỗng dưng…, ứng với đầu câu dưới là các chữ tương
tự như: hay đã…, phải có…, để mà…, v.v. thì liên thơ đó đã theo phép đối nói
trên.
*
Phép tá tự đối:
Ví dụ:
Nghèo sạch, thanh danh nên gắng giữ
Giầu sang, khó tính chớ nên chơi.
*
Câu trên, “thanh danh” là danh từ, câu dưới “khó tính” là
tính từ, xét thế thì quả là bất đối. Nhưng nếu theo tiếng (không theo nghĩa
thật), thì chữ “khó”, chữ “thanh” lại là tính từ; Chữ “danh” và chữ “tính” lại
là danh từ. Xét theo cách này thì chúng lại đối chặt chẽ với nhau. Phép đối này
người ta lợi dụng sự đồng âm dị nghĩa để Tá tự đối (như: hai mái trống tung
đành chịu dột/ tám giờ chuông điểm phải nằm co – của Tú xương).
*
Phép số tự đối gắn với Tá tự đối:
Ví dụ:
Học bẩy nghề còn lo thất nghiệp
Làm ba vụ vẫn đói tư mùa.
*
Hơi tiếc, ở câu dưới viết: ba vụ đối với tư mùa, tuy là đúng
có nội đối ở trong câu, nhưng không hay bằng câu trên: bẩy cái nghề và thất
(mất) cái nghiệp. Câu dưới, nếu không vì luật bằng trắc, mà viết là: “Làm tư vụ
vẫn đói tứ mùa”, thì câu đối này được xếp vào hạng tuyệt diệu. Phép dối này
được xem như là phép số tự đối có kèm theo lối chơi chữ (có thể liên hệ đến:
nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc - của bà Huyện Thanh Quan).
*
Phép cú trung đối:
Ví dụ:
Màn trời chiếu đất con người khổ
Nước vật thuyền xơ cá biển nghèo
*
Nếu câu trên, câu dưới cứ chiếu từng chữ lên nhau, thì hai
câu này cũng bất đối. Nhưng xét nội bộ từng câu, thì lại thấy: màn trời đối với
chiếu đất; nước vật đối với thuyền xơ; đuôi câu trên (con người khổ) đối rất
chặt với đuôi câu dưới (cá biển nghèo). Lấy câu có nội đối để đối nhau thì lại
rất cân bằng. Đây là cú trung đối.
*
Tuy nhiên còn một số phép đối khác chúng ta ít vận dụng, xin
được dẫn ra đây để cùng tham khảo.
a) Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ?
Xương gà da cóc, có đau không?
(Nguyễn Khuyến)
*
b) Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
(Hồ Xuân Hương)
*
c) Công đức tu hành, sư có lọng
Xu hào rủng rỉnh, mán ngồi xe.
(Tú Xương)
*
Chúng ta để ý: Cụ Nguyễn Khuyến cũng như nữ sỹ Xuân Hương đã
tổ chức từ ngữ ở từng câu, để câu nào cũng có tiểu đối, nhưng ta không xếp hai
liên đối a,b nêu trên vào phép Cú trung đối, vì ngoài phần có tiểu đối, trong
từng câu còn có phần bất đối. Do đó hai liên thơ a, b trên chúng ta quy vào
phép Tựu cú đối.
*
Trong câu của Tú Xương, ông Tú đã đem cả hai cụm từ như hai
thành ngữ để chọi nhau: công đức tu hành chọi với xu hào rủng rỉnh. Mặt khác
đuôi của từng câu lại đối rất chặt với nhau: sư có lọng đối với mán ngồi xe.
Phân tích đặc điểm này để kết luận: đây cũng là phép Tựu cú đối như a và b. Cú trung
đối và Tựu cú đối, có dạng thức ngữ pháp của câu văn na ná như nhau, nên còn có
tên chung là Đương đối.
*
Phép giao cổ đối:
Cụ Trần Tuấn Ngọc, trong bài “Tự nhủ”, (Bạn và thơ là xuân –
NXBVHDT, Hà Nội 2004), có câu luận:
Chân bước vững, đường chiều khấp khểnh
Rừng cây rậm rạp, trúc vươn cao.
*
Đây chính là phép Giao cổ đối: chân bước vững đối chéo xuống
với trúc vươn cao, và rừng cây rậm rạp đối chéo lên với đường chiều khấp khểnh.
*
Phép bất đối chi đối:
Trong buổi lễ tế “Trận vong tướng sỹ” thế kỷ 19, quan tổng
trấn Nguyễn Văn Thành có sai trưng câu đối chữ Hán (nay dịch nghĩa) như sau:
Bóng chiều đã ngả đâu quê cũ
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
*
Câu trên lấy từ thơ Thôi Hiệu, bài Hoàng Hạc Lâu. Câu dưới
lấy từ thơ Vương Hàn, bài Lương Châu Từ.
Cái hay của đôi câu đối này là: Ghép hai câu thơ khác nhau
của hai tác giả mà câu đối vẫn hiệp chung một tình ý. Câu 1 có đại ý là cảm
thán tình cảnh, câu hai có đại ý là an ủi vong linh. Thật là quá hợp với nội
dung Tế Trận Vong Tướng Sỹ. Đây là phép bất đối chi đối, lấy cái không đối để
đối, không lệ thuộc vào mặt chữ mà chỉ chú trọng đến ý. Ý phải đối nhau, cấu
trúc ngữ pháp phải song song đồng dạng với nhau.
*
Những bậc cao niên khuyên rằng, nếu một khi ta chưa thật
thạo về các phép đối, thì chỉ nên sử dụng các phép chỉnh đối, lưu thủy đối, cú
trung đối. Còn các phép đối khác, chúng ta hãy chỉ làm quen, giúp chúng ta nhận
biết được các dạng thức đối khác nhau.
*
Vẫn phải thưa thêm: các phép đối thơ, dù ở dạng thức nào đều
phải hội đủ 3 đặc điểm:
- Đối ý. Ý câu trên và câu dưới, hoặc chống nhau, hoặc bổ
sung ý nghĩa cho nhau.
- Đối thanh âm. Chí ít là các chữ nằm ở vị trí 2, 4, 6, 7
(Thơ thất ngôn) và 2, 4, 5 ( Thơ ngũ ngôn) nhất thiết phải tuân theo luật bằng
trắc.
- Đối từ loại, danh từ đối với danh từ, động từ đối với động
từ, tính từ đối với tính từ. Phải nắm được các phép biến đổi từ loại ở các ngữ
cảnh khác nhau. Tuy nhiên, cũng có phép đối không yêu cầu đối từ loại như theo
phép chiếu chữ, mà ở đó lại có sự xoay chiều để đối chéo cho nhau.
*
Viết bài này tôi chỉ nhằm mục đích trao đổi thêm về vấn đề
đối ngẫu trong thơ Đường luật. Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực,
luận chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để nhận
ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì chẳng
khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt nhẽo
và vô vị.
*
*
Trong bài này, việc đặt vấn đề của tôi là chắc chắn đúng
nhưng việc lấy ví dụ để phân tích thì có thể có chỗ còn nông cạn, thậm trí có chỗ
còn thiếu sót. Để góp một chút lửa thắp sáng cho thơ Đường đất Việt, rất mong
bạn đọc rộng lượng và cùng đồng hành.
*
NGUYỄN VĂN THỤ
Chủ nhiệm CLB thơ đường Hà Nội
No comments:
Post a Comment