Từ phải : Nhà báo Đỗ Hữu Hóa (phó GĐ Đài PTTH Thừa Thiên-Huế) và nhà giáo -nhà thơ Võ Văn Hoa |
Sông Ô Lâu (còn có tên khác là sông Thu Rơi;
sông Mỹ Chánh; sông Thác Ma) được bắt
nguồn từ
vùng núi Tây Trị Thiên hùng vỹ, rồi
uốn lượn
quanh co hiền hoà qua bao triền đồi
bazan bỏng rát, âm trầm chảy
qua các xã Hải Sơn, Hải Chánh, Hải
Tân, Hải Hoà... thuộc huyện
Hải Lăng nằm
ở cực
Nam của tỉnh
Quảng Trị
nơi tiếp giáp với các làng Mỹ
Chánh, Mỹ Xuyên, Kế Môn, Đại
Lược, Phước
Tích... của tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Từ xa xưa
cho tới tận bây giờ, người đời
vẫn quen gọi
dòng sông Ô Lâu bốn mùa nước trong văn vắt
này là dòng sông của những chuyện
tình riêng đau, nên con nước dẫu đã nghìn năm vẫn cứ mãi phân vân xuôi chảy về
biển Đông một cách lặng buồn như nước
mắt của
những người
con gái...
Là người Quảng Trị,
nên từ những
năm tháng còn cắp sách đến học
chữ ở
trường làng, đôi lần tôi đã được
nghe những người lớn tuổi kể về dòng sông Ô Lâu. Dòng sông mà trong ký ức hiểu
biết của
tôi bao giờ cũng mềm mại
đáng yêu như một bức tranh thủy
mặc, hiền
hòa lưu giữ những vàng son, quê kệch của làng xưa
thăm thẳm đến vô cùng...
Thế rồi, cho đến
chiều nay, một buổi chiều bình yên, gió xào xạc rung từng đợt buồn lên mặt
sóng của dòng Ô Lâu xanh thẳm, tôi mới
có dịp về
đứng bên dòng sông này trong đoàn những người
đi điền dã để khảo sát về những
làng nghề xưa nằm dọc
theo dòng sông Ô Lâu đẹp như nước mắt...
Đêm. Giữa một ngôi làng nhỏ
bé nằm về
phía tả ngạn
của dòng Ô Lâu, chúng tôi được dịp
nghe một vị
cao niên của làng kể lại
câu chuyện tình buồn thương của
một cô gái chèo đò ngang bên dòng Ô Lâu
xưa với một anh học
trò nghèo xứ Nghệ.
Chuyện kể rằng,
một ngày xưa lắm,
có anh học trò nghèo ở đâu tận
miệt Quỳnh Lưu xa lắc, trên đường
vào ứng thí ở Kinh đô. Khi đi qua bến
đò ngang trên dòng Ô Lâu thì phải lúc ốm đau, trong tay không còn một đồng
chinh lộ phí. Thương cảm trước
cảnh ngộ
của một
đấng nam nhi có chí sách đèn, cô gái
chèo đò bên sông Ô Lâu năm ấy đã e ấp giúp chàng trai kia từ bữa cơm
dưa cà cho qua đận đói,
cho đến mấy
đồng lộ
phí giắt lưng để
tiếp tục
hành trình mải miết chờ ngày ứng thí ở
chốn Kinh đô.
Đáp lại tấm lòng thơm thảo
của cô gái bên sông, anh học trò nghèo xưa cũng bùi ngùi gửi lại
biết bao lời
thề non hẹn
biển. Họ
ước nguyện
sau khoa thi năm ấy, chàng sẽ quay về
bên bến đò xưa để tìm gặp
lại người
con gái yêu thương đã chiếm giữ trái tim mình. Thế nhưng, sau cái bận đưa khách sang sông ấy, người
học trò nghèo xứ Nghệ cũng theo tháng
theo năm mà biệt vô âm tín... Bên bến sông quê, với
cây đa, bến nước, con đò, người con gái
cứ mỏi
mòn chống sào chờ đợi trong nỗi tuyệt
vọng đớn
đau. Rồi đến
một ngày khi sức cùng lực tận, người
con gái chèo đò bên bến Ô Lâu đành phải gửi
lại nỗi
chờ trông cùng cây đa, bến nước...
mà xuôi tay về chốn cửu tuyền.
Oái oăm thay, khi trên nấm
mồ của
người con gái chèo đò bên bến sông kia cỏ
chưa kịp xanh thêm, thì người học
trò nghèo năm xưa nay công thành danh toại,
võng lọng xênh xang tìm đường trở
lại. Lặng
yên đứng bên nấm mồ của người
mình thương nhớ, chàng học trò nghèo năm xưa khóc thương
cho đến cạn khô nước mắt. Rồi
chàng khắc mấy vần thơ
dang dở buồn đau đặt lên nấm mồ
cô quạnh bên sông. Cũng từ đó, những
câu thơ trên nấm mồ của
người con gái bên dòng Ô Lâu được người
đời nối
tiếp nhau truyền tụng cho đến tận
bây giờ:
“ Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ con đò
khác đưa
Con đò đã thác năm xưa
Cây đa, bến cũ còn lưa
bóng người”
Ở làng Câu Nhi, huyện Hải
Lăng (Quảng Trị) tôi còn được nghe kể một
cách khá tường tận về câu chuyện tình của
bà Nguyễn Thị Bích - vợ thứ hai của
Hoàng đế Quang Trung. Bà Bích cũng là một người
con gái được sinh ra ở ngôi làng nhỏ
nằm ngay bên dòng sông Ô Lâu xanh mát. Một ngôi làng mà trong suốt chiều
dài lịch sử
của dân tộc
đã sản sinh ra nhiều người
con tài đức để phụng sự cho Tổ
quốc như vị
tiến sỹ
đầu tiên trong làng quan lại phong kiến
ở miền
Trung - Bùi Dục Tài, Tướng công Nguyễn Chánh, Đô đốc
Phúc Long Hầu, Tham tướng Hoàng Bộ,
Tống sứ
Phạm Duyến,
nhị vị
Thượng thư Nguyễn
Tăng Doãn - Bùi Văn Tú, danh y Trần Mậu... thời
hiện đại
sau này thì có nhạc sỹ - cựu
Bộ trưởng
Bộ VHTT - Trần Hoàn, Thượng tướng - Thứ
trưởng Thường
trực Bộ
Công an - Nguyễn Khánh Toàn... với hơn 400 tiến sỹ, thạc sỹ
và cử nhân hiện đang sinh sống và làm
việc ở
nhiều nơi trong và ngoài nước.
Làng Câu nhi bên sông Ô Lâu |
Theo sự chỉ dẫn của một
người cao niên thuộc tộc
Nguyễn trong làng, chúng tôi được tiếp
xúc với hậu
duệ của
cụ Hồ
Tranh - một con người rất
am tường cổ
sử. Ông Hồ
Tranh là con trai của ông Hồ Tiểu
Viện, một
ông quan huấn đạo dưới triều vua Tự
Đức. Ông Tranh từng kể cho con cháu nghe rằng: Cha ông thi đỗ tú tài năm 34 tuổi
(1899), đến năm 41 tuổi (1906) thì thi đỗ cử nhân rồi được
bổ làm quan huấn đạo tỉnh Bình Thuận.
Hồi ông Tranh còn nhỏ, mỗi
lần dạy
học cho con, ông Viện thường
kể cho con trai mình nghe về bà Nguyễn
Thị Bích.
Theo hiểu biết của
ông Hồ Tranh thì bà Bích là con thứ 16 của
ông Nguyễn Cảnh - một ông quan danh tiếng dưới
thời các Chúa Nguyễn. Bà Bích là một
người con gái hiền thục, tài hoa, được ăn học
tử tế.
Khi lớn lên, bà theo cha vào làm quan ở Bình Định
và cũng ở đó bà đã gặp rồi
nên duyên cùng người anh hùng áo vải Nguyễn
Huệ. Theo ông Tranh thì bà Bích dù là vợ thứ
hai của Nguyễn Huệ nhưng
lại trước công chúa Lê Ngọc Hân.
Những năm tháng chung sống với
người anh hùng này, bà Bích đã sinh hạ được
một người
con trai. Trong cuộc đời ngắn
ngủi của
mình, Nguyễn Huệ thường xuyên xông pha nơi
trận tiền ác liệt, chứ chẳng
mấy khi được
an nhàn ngơi nghỉ ở chốn
bình yên. Những lúc người anh hùng áo vải mải mê với vó ngựa
trường chinh nơi biên thùy lửa khói, bà Bích vẫn một lòng một dạ
ôm con chờ chồng nơi biên ải xa xăm. Nhưng, phận số của những
người đàn bà nhan sắc thường
rất đỗi
đa đoan và cuộc đời của bà Bích cũng không
là một ngoại
lệ. Nguyễn
Huệ không bỏ mình nơi chiến
trường dưới
làn tên mũi đạn của quân thù, mà ông đã chết
khi chỉ mới
vừa ngồi
lên ngôi báu.
Tai họa lại ập
xuống đầu
bà từ sự
truy lùng trả thù vô cùng dã man của triều
đại Gia Long. Bà Bích vì thế mà đã phải
cải dạng
ăn mày, bồng con khăn gói trốn về
quê nhà bên bến sông Ô Lâu để lánh nạn.
Nhiều lần
nghĩ quẩn, bà đã định bụng
ôm con trầm mình xuống dòng sông đã tắm mát cho suốt tuổi thơ của
bà để quyên sinh. Nhưng
để bảo trọng giọt máu của
hoàng đế Quang Trung nên nhiều cận
thần Tây Sơn đã tìm cách đưa
bà cùng con trai của mình trở lại
Bình Định. Ở đó, bà đã sống những năm tháng cuối
đời mình trong cảnh cơ hàn, ẩn dật cho đến khi nhắm
mắt xuôi tay ở thôn Vĩnh An, huyện Phù
Cát, tỉnh Bình Định.
Còn có một câu chuyện tình bi thương khác nữa, cũng của một người
con gái được sinh ra và lớn lên bên bến
sông này, đó là câu chuyện tình của bà Dương Thị
Ngọt. Bà Ngọt là con gái của ông Dương
Quang Xứng, ông Xứng làm quan dưới
triều nhà Nguyễn, ông từng được giữ
chức viên ngoại lang ở Nha Thương
trường. Năm 1885, sau cuộc chính biến
ở Kinh đô Huế và tiếp đến là “kinh đô thất thủ”. Tôn Thất Thuyết
hộ giá vua Hàm Nghi ra căn cứ Tân Sở.
Thống tướng
De Coucey đày Nguyễn Văn Tường, Phạm
Thận Duật
và Tôn Thất Đính sang đảo Haiti, đồng
thời sai ông De Champeaux lên Khiêm Lăng
yết kiến
đức Từ
Dũ, xin lập ông Chánh Mông là Kiến Giang Quận
Công lên làm vua lấy niên hiệu là Đồng
Khánh.
Dưới thời Đồng
Khánh, ông Xứng được thăng chức Lang Trung.
Đến năm 1894, dưới thời vua Thành Thái,
ông Xứng giữ chức Thái Bộ Tư khoanh rồi đến giữ chức
Bố Chính tỉnh
Khánh Hoà. Trên con đường hoạn lộ,
dù làm gì, ở đâu ông Xứng cũng mang cô con gái rượu theo cùng, bà Ngọt càng lớn lên càng đẫy đà xinh đẹp.
Vì vậy mà vua Thành Thái đã chọn bà để
làm bà phi thứ 9. Sử sách kể
lại rằng,
bà Ngọt là một bà phi được vua Thành
Thái hết mực
thương yêu và sủng ái, vì vậy mà những
bà phi khác trong cung hết sức ghen ghét với
bà. Nhân một lần vua Thành Thái cắt tóc
ngắn... vậy
là các bà phi trong cung đã bày mưu tính kế để hại bà Ngọt,
họ đã đánh lừa để cắt mất
của bà Ngọt
một nắm
tóc, rồi tìm cách báo cho vua hay. Thấy vậy,
vua Thành Thái gán cho bà mắc phải trọng
tội khi quân nên đã xử chém bà. Thế
nhưng, sau khi bà Ngọt chết, vua vẫn
cho làm lễ mai táng bà hết sức
chu đáo, đúng theo nghi lễ triều đình, xứng
đáng với cái chết của một bà hoàng phi. Quan tài của bà được
đưa xuống thuyền rồng
rồi theo đường
sông về bên bến Ô Lâu, với làng quê yêu
dấu của
bà ở thôn Hội Kỳ, xã Hải Chánh, huyện Hải
Lăng (Quảng Trị).
Lăng mộ của bà được
xây cất rất
cẩn thận,
trên bia mộ có khắc dòng chữ: “Hoàng triều cửu
giai tài nhân thụy thục thuận
Dương thị chi tẩm. Thành Thái thập tam niên bát nguyệt cát
nhật tại”.
Sau khi xây cất lăng xong, vua còn cho 4
người từ
phu túc trực trông coi lăng bà, cả 4 người
này đều được
nhà vua cấp phát ruộng đất
và miễn tất
cả các loại
sưu thuế cho đến trọn
đời. Tương truyền, sau cái chết oan uổng của
bà Ngọt, vua Thành Thái vì thế mà muộn
phiền nhiều
hơn rồi ông giả điên để
mưu đồ kháng Pháp. Nếu điều
tương truyền ấy là sự
thật, thì chắc bà Ngọt cũng sẽ mãi ngậm
cười nơi chín suối vì cái chết của mình cũng hữu
ích cho vận mệnh của quốc gia.
Làng Lương Điền thuộc xã hải Sơn bên sông Ô Lâu |
Sông Ô Lâu vẫn thế, suốt
bốn mùa con nước mãi xanh trong, ai đó bảo
nước sông đẹp như nước
mắt của
những người
con gái, phải chăng câu ví von ấy được
phát xuất từ những cuộc tình bi thương, khắc khoải của những
người con gái đã được sinh ra, được
tắm mát và đã lớn lên trên bến sông này.
Biết bao nhiêu cuộc đời lụa là gấm
vóc rồi cũng trở về với vĩnh hằng
cát bụi, chỉ còn lại với đời
những câu chuyện tình yêu đớn đau, tiếc nuối
khôn nguôi... Rồi con nước Ô Lâu vẫn
sẽ cứ
nghìn năm mải miết, cứ nghìn năm thì thầm vào ngàn khơi
vô tận của
tình yêu.
ĐỖ HỮU HÓA
No comments:
Post a Comment