XÓM CỔNG QUÊ NGOẠI CÒN ĐÓ MÀ ĐÃ MÙ SA!
Tản văn Lê Minh Hiền
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê Ngoại ruột đau chín chiều... (Ca dao)
Tôi có rất nhiều kỉ niệm đẹp về quê Ngoại. Tôi sinh ra, sống những ngày tháng khởi sự đầu đời ở Xóm Cổng, Quê Ngoại. Quê Ngoại tôi thanh bình lắm! Và những kỷ niệm một thuở thơ ngây ở Quê Ngoại... cơ hồ đâu đây vừa mơ hồ vừa hiển hiện trong tôi những hình ảnh thương yêu càng ngày càng lắc càng đầy trên con đường dài lần của một đời người... Hơn ba mươi năm xa xứ với hai lần trở về Việt Nam, vỏn vẹn trước sau vài chục ngày, và có ghé về Quê Ngoại đôi lần. Những tháng năm dài sinh sống ở xứ người vừa khác tiếng nói, khác màu da, khác sinh hoạt văn hóa khởi đi từ lúc còn lạ nước lạ cái đến hôm nay với một khoảng thời gian dài như vậy quá đủ lâu để nên cố quận. Nhưng những ký ức cái thuở ngày xưa còn bé thơ ấy ở Quê Ngoại ngày càng vừa vời vợi mù sa vừa rõ ràng hơn bao giờ trong tâm hồn tôi. Và cái cảnh thanh bình ấy mỗi khi nhớ về, tôi lắng nghe tiếng lòng mình rung lên những xao động dễ thương lạ thường.
.
Quê Ngoại tôi mang một cái tên thật mộc mạc là Xóm Cổng. Đi ngược hướng biển thành phố Qui Nhơn ra ngoại ô khoảng vài dặm, vừa qua khỏi chân Cầu Đôi, ngay bên phải là một con đê ngoằn ngoèo dẫn về ngang qua Xóm Cổng. Xóm Cổng nhỏ bé vài chục nóc nhà nằm bên phải con đê như một cái cù lao nhỏ. Nhà Ngoại ở đầu xóm ngay sát bên chân con đê. Xóm Cổng quanh năm nằm nghe lũ gió từ ngoài sông chạy vào xóm nhỏ, ghé vào sân nhà Ngoại vừa ồn ào trong yên bình như chơi trò trốn tìm cả ngày lẫn đêm trên những tàu lá dừa lao xao. Những cây dừa có những buồng dừa nặng trái có màu vàng đỏ như màu trái dừa xiêm nhưng to như dừa thường. Có lẽ đây là giống dừa thường lai xiêm chăng! Vì vậy mà nước dừa nhà Ngoại tôi vừa nhiều nước vừa có mùi thơm mát, có vị ngọt thanh tôi chưa từng gặp lại ở bất kỳ ở nơi nào khác! Ký ức về lũ gió trên những tàu dừa trong sân nhà Ngoại tôi ngày nào tôi mang theo cả đời mình! Hồi mới qua định cư ở Mỹ, ngày cuối tuần Ba tôi, người bảo lãnh cả nhà qua Mỹ, hay lấy xe hơi chở cả nhà xuống biển Huntington Beach chơi. Đi trên bãi cát trắng biển xanh ngay giữa nắng vàng đầu hè nghe gió biển lạnh buốt lại càng gợi tôi nhớ tới những cơn gió nồm miền sông nước Quê Ngoại lạ thường! Những thoáng nhớ ấy tôi mơ hồ nghe hồn mình sao lạc lõng khôn cùng nơi quê người cách xa Quê Ngoại nửa vòng trái đất bên kia đầu bờ biển Thái Bình Dương!
.
Nhớ rõ làm sao như hôm qua trong tôi, những ngày xưa tôi còn bé xíu ở nhà Ngọai. Yêu làm sao những xế chiều về, Dì Út Tám tôi trải chiếu trước hè cho tôi nằm chơi. Còn Dì thì ngồi cạnh đan lưới đánh cá. Hạ vàng ươm mật, và gió ngoài sông thổi vào mát rượi. Và cứ vậy những cơn gió nồm yên ả thầm thì ru tôi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Đến khi tôi thức giấc thì đêm đã khuya rồi. Ngoài sân ánh trăng trong vắt thủy tinh nhuộm vàng cả không gian. Lũ gió nồm vẫn không thôi từ ngoài sông thay nhau ghé về bên tôi, nghe như chúng đang thì thầm bên tai tôi một điều vĩnh hằng vừa sâu lắng vừa đơn giản về ý nghĩa hạnh phúc đời người an nhiên ở một miền quê thanh bình. Những lúc đó, bao giờ tôi cũng thấy Ông Bà Ngoại tôi đang ngồi uống trà nói chuyện trong nhà giữa. Dì Tám chắc đã bỏ đi đâu đó, còn cậu Bảy Ời đi chơi vẫn chưa về. Ông Bà Ngoại tôi có tất cả 4 người con từ Má tôi là chị lớn nhất thứ 4 trở xuống là Ơi, rồi tới Dì 5 Quơi, Cậu 7 Ời, Dì Út 8 Hử. Tôi không nghe nói gì về người con cả thứ 2, thứ 3 và thứ 6, có lẽ họ mất từ hồi còn rất bé chăng? Ông Ngoại tôi chắc cũng như bao người dân quê muôn đời hay có cái quan niệm đặt tên cho con cái sao nghe bình dân, thậm chí xấu xí để đứa bé không bị cõi trên quở làm ốm yếu, để chúng nhanh ăn chóng lớn. Nên Má tôi, các Dì và Cậu tôi mới có những cái tên lạ lùng vậy!
.
Với Ông Ngoại tôi có một kỷ niệm rất ấn tượng dù chỉ nghe từ Má tôi hay kể lại. Hồi ấy, vài ngày sau khi tôi sinh ra ở bệnh viện Đa khoa Qui Nhơn chính Ông Ngoại tôi đã chèo xỏng nhỏ rước Má và tôi từ Cầu Đôi về. Hồi đó con đường đê từ đường cái quan chạy ngang nhà Ngoại rất hẹp và ngoằn ngoèo uốn lượn quanh co làm cho việc đi đứng không dễ dàng gì. Đã vậy, tôi ra đời vào giữa mùa mưa. Về mùa mưa thứ đất thịt đắp nên con đê thường sau một cơn mưa lớn nhanh chóng biến dạng thành nhão nhoẹt rất khó đi nên Ông Ngoại tôi phải đưa về bằng đường sông. Và tôi không thể không kể lai lịch tấm hình minh họa hồi ức này vì đâu tôi có. Tấm hình ghi nhận cả một vùng sông nước, dãy núi xa xa và khởi đầu cận cảnh là Cầu Đôi. Có cái tên Cầu Đôi là vì một bên là cây cầu đường cái quan, song song là cây cầu đường tàu lửa* bên kia. Gần đấy là Tháp Đôi bên trái con đường về hướng thành phố Qui Nhơn không lạ gì, nhưng chưa bao giờ tôi có duyên đến tận nơi, cũng vì nó quen thuộc quá trong tầm nhìn nên đã không có nhu cầu tìm đến chăng. Tấm hình do ai đó đã chụp, có một trùng hợp là cũng ngay mùa mưa năm 1957 có ghi rõ bên dưới tấm hình, là năm tôi khởi sự có mặt trên cõi người ta này, có cả con đê nhỏ và còn lạ lùng biết bao trên sông còn có một chiếc ghe nhỏ do một người nào đó đang khua chèo như thể Ông Ngoại tôi đang khua mái chèo nhỏ năm xưa đưa Má và tôi về nhà Ngoại vậy. Tấm hình này post trên một fb một người quen biết ở Khu 6 Qui Nhơn, nơi tôi đã trải qua một thời thơ ấu mãi cho đến vài năm sau 1975, mà tôi tình cờ trông thấy. Tấm hình như một kỷ vật quý báu nhất đời tôi! Tôi phóng to ra và treo trang trọng ở phòng khách như mang theo bên mình một trời Quê Ngoại tôi nơi xứ người!
.
Tôi còn nhớ mỗi lần về thăm Ngoại, đi trên con đê nhỏ nghe gió lớn thổi ù ù hai bên tai đến nổi chúng tôi phải nói to mới nghe nhau được. Đường về nhà Ngoại qua nhiều cái cống nhỏ. Mà tôi thích lắm mỗi khi dừng chân đứng xem nước chảy ào ào qua mấy cái cống nhỏ làm bằng cây này. Nước chảy qua những cái cống nầy mạnh trông thật dữ dội. Cái kí ức hình ảnh này từ một thời tuổi thơ ấn tượng đến nỗi mặc dầu sau này lớn lên giang hồ phiêu lưu sông hồ khắp nơi, rồi sang Mỹ, từng có dịp đứng trước biển bao la nghe sóng đánh ì ầm, lòng tôi pha trộn nhiều cung bậc cảm giác khác nhau, song vẫn không tìm gặp lại cảm giác ấn tượng như khi bước qua mấy cái cống nhỏ quê Ngoại nghe trong lòng vừa sợ vừa thích thú lạ lùng của một thuở vào đời ngày xưa còn bé. Quê Ngoại tôi có cái tên là Xóm Cổng phải chăng có nguồn gốc liên quan đến mấy cái cống này chăng!
.
Bây giờ, Ông Bà Ngoại đều đã qua đời, cả Cậu Bảy Ời tôi mất lúc còn tuổi trung niên không phải trong mùa chinh chiến điêu linh trước 1975 mà vì căn bệnh trầm cảm vài năm sau đó bắt nguồn vì phận nước đổi thay, Cậu tôi phải sống những ngày nghèo khổ và bất đắc chí. Đâu đây trong tôi vẫn còn hình ảnh Cậu Bảy Ời và ngón đờn vọng cổ thật mùi, thật tha thiết, một con người có tâm hồn nghệ sĩ như con ve sầu chỉ thích ca hát suốt mùa hè! Còn Dì Tám lấy chồng là lính Xây Dựng Nông Thôn. Sau 1975 Dì theo về sinh sống ở quê chồng tận ngoài Tình Giang, thuộc Huyện Tuy Phước cách Qui Nhơn vài giờ đi xe máy. Dượng Hạt chồng dì mất mười mấy năm trước vì đột quỵ lần thứ hai. Con cái Dì khôn lớn đứa nào cũng trưởng thành và có sự nghiệp vững vàng. Tôi hay gọi video fb call về Vn thăm dì. Lần rồi mới hay Dì vừa qua cơn đột quỵ, may mà cứu chữa kịp thời, nhưng di chứng là miệng Dì hơi méo một tí. Mấy chị em tôi cùng góp tiền gửi về cho Dì. Dì nói sẽ dùng mua thuốc uống hàng tháng cũng tốn kém khá nhiều. Và buồn hơn là Xóm Cổng không còn như những gì tôi thích mơ màng hồi tưởng. Vô thường biến đổi, từ cảnh đến người. Đã có một con đường lớn 2 chiều thay con đường đê nhỏ chạy mãi ra tận các huyện lỵ về hướng bắc. Nhiều phần sông đã được bồi lên thành những khu dân cư. Đến nỗi nghe em tôi về Việt Nam thăm chơi, tìm về Quê Ngoại, nó kể lại nếu không có tụi em con Cậu Bảy Ời dẫn đường chắc nó lạc lối thôi.
.
Hai đứa con gái tôi sinh ra ở một phố nhỏ cách không xa Little Saigon, một khu thương mại cộng đồng người Việt ở Quận Cam, South California. Tuổi thơ của chúng không sống trong thiên nhiên thanh bình như tôi ngày xưa còn bé ở Xóm Cổng mà hiện đại, vật chất dư thừa. Dẫu vậy, bù lại tôi biết dành cho chúng một tình yêu bao dung nhất, một vốn kiến thức quê hương nhiều nhất có thể của một người Bố có nhiều kỷ niệm tình tự quê hương! Trước khi đến tuổi vào trường nhập học tôi đã bắt đầu dạy chúng học tiếng Việt. Ngoại cảnh có khác: Quê Ngoại và ở Mỹ nhưng tình người thì muôn thuở vẫn như nhau. Ngoại cảnh chỉ là phương tiện chuyên chở tình người đến những bến bờ hạnh phúc. Nhìn con lòng tôi bồi hồi nhớ lại mới ngày nào Bà Ngoại tôi hay nói vừa như đùa như thật, “Chừng nào con lấy vợ hử con, Hiền...” mỗi khi Bà mang cá đi xuống chợ Lớn ở Qui nhơn bán, tiện chân ghé thăm các cháu. Tôi giờ đã hơn nửa đời người, tuy muộn màng, nhưng cũng có được một mái ấm gia đình. Bé lớn Jenny sắp lấy bằng Master Psychology vào mùa hè này, còn bé ba Jane đang theo học năm thứ 3 ngành văn học nghệ thuật. Còn nhớ lúc lên hai, bé Jenny đã biết hát nhiều bài lắm, nhạc Việt có, nhạc Mỹ có, song tôi thích nhất bài Đi chùa Hương, tôi hay nói đó là bản ruột của nó. Con bé còn đọc được một đoạn ngắn trong bài Tôi đi học của Thanh Tịnh: ''Mỗi năm cứ độ cuối thu, lá ngoài đường rơi nhiều và trên không trung có những đám mây bàng bạc, Bố Mẹ tôi dắt tay tôi đi học, đi chơi...Yeah!'' Không biết vì sao mỗi lần kết thúc đoạn văn con bé dơ hai tay lên và hô yeah. Con bé Jane còn thuộc cả một bài học thuộc lòng tôi đã học hồi còn ở bậc tiểu học. Bài học thuộc lòng có vần điệu nhịp nhàng và đầy hình ảnh làm tôi mãi mãi không quên:
''Kỳ nghỉ hè
Ta về quê
Nhà ta ở
Mé bờ đê
Ở nhà có
Bố mẹ ta
Ông và bà
Quí ta quá
Khi thư thả
Ta ra đê
Đi thả bê
Nghĩ là thú.''
.
Năm 1997 tôi về VN lập gia đình. Trong suốt thời gian về Việt Nam, tôi ở nhà từ đường của tôi sau giao cho Chú Sáu tôi trước khi cả nhà sang Mỹ. Nhà Nội Ngoại cạnh nhau, cùng một xã Nhơn Bình, nhưng khác thôn đều thuộc Thành phố Qui Nhơn. Tôi hay về nhà Ngoại, lúc này còn Mợ Bảy Ời sống cùng gia đình thằng Phúc, con trưởng nam. Tôi nhớ hoài buổi chiều hôm ấy, sau đám cưới vài ngày, ... một chiều mùa đông trời âm u và mưa râm râm bao phủ Xóm Cổng, nghe lành lạnh! Một cảnh thân thương quen thuộc nơi sông nước quê Ngoại nơi tôi đã từng sống qua một thời thơ ấu mà tôi thường nhớ lại da diết qua những năm tháng ở Mỹ... Mợ Bảy tôi dẫn tôi và vợ tôi ra thăm mộ Bà Ngoại. Đường ra mộ Bà tôi hồi ấy với giờ đây khác nhau nhiều lắm, nếu không có Mợ dẫn đường tôi khó mà tìm được đến nơi. Mưa vẫn lâm râm rắc muôn ngàn hạt nước xuống làm mặt sông rỗ chằng chịt. Giữa sông có một chiếc xỏng nhỏ, một người đàn ông khoác một tấm áo che mưa kết bằng rơm vẫn bình thản buông lưới. Trời âm u hơn, mưa nặng hạt hơn, nghe lạnh hơn và gió sông mang theo nước mưa tạt vào làm chúng tôi thật khó khăn lắm mới thắp được mấy nén nhang. Vợ tôi bên cạnh, tôi cầm nhang khấn vái thầm nhắc lại với Ngoại chuyện xưa ngày nào. Nước mắt tôi rưng rưng nhưng nhanh chóng bị những hạt nước mưa hòa tan đi. Ở mộ Bà về thì mưa đã tạnh, trời sáng hẳn ra. Tôi khoan khoái hít thở lại cái thứ mùi mằn mặn, nồng nồng quen thuộc nước lợ quê Ngoại, mùi thơm thơm nhè nhẹ của một thứ rau câu mà ai đó vừa vớt lên bên bờ sông và lại được dịp nhìn thấy thật nhiều con còng nho nhỏ nhiều màu đỏ, vàng với những cái càng mập ú đang ùa nhau lủi xuống những cái lỗ hang nhỏ khi thấy dáng chúng tôi từ xa... Tôi nhớ hoài như in khắc sâu trong lòng mình hình ảnh bà Ngoại nhỏ bé, già nua của tôi đứng trước cổng nhà vẫy tôi theo Bà dẫn đi ăn bánh xèo ở cái quán nhỏ cuối xóm. Tôi vào đời thể chất không được khỏe mạnh mấy. Má tôi kể, lúc lọt lòng, tôi cân nặng chỉ 2 kí rưỡi, bệnh quanh năm làm khổ Má không ít. Hồi ấy bên Ngoại tôi mới có 2 đứa cháu là chị hai tôi và tôi, các dì và cả Cậu Bảy Ời còn chưa lập gia đình. Nên Bà Ngoại cưng chiều tôi lắm. Cũng vì vậy mà các dì cậu tôi hay bị Bà la oan hoài mỗi khi tôi khóc nhè không cần hỏi vì sao. Cuộc đời bà Ngoại tôi thật tội! Suốt một đời tảo tần lo cho con, còn riêng bà có mấy ngày vui! Ngày ngày từ mờ sáng bà tôi đã quẩy đôi quang gánh đầy cá mang xuống bán ở Chợ Lớn Qui Nhơn. Bà qua đời sớm ở tuổi 50 chỉ vì một chuyện không đâu... , mỗi lần đến ngày giỗ Bà tôi, nhìn ảnh thờ của Bà tôi hay tự hỏi sao trông bà già móm mém đến thế ở cái tuổi như vậy!
.
Đông qua Xuân lại, Hạ vàng Thu rơi dòng thời gian vô cùng trôi đi mang theo ba phần tư đời tôi đến nay ở một đất nước xa lạ đủ lâu đã nên cố quận mà nghe sao hồn mình vẫn không gì thay đổi. Dạo này, chợt phát hiện mình hay dễ xúc động bất kỳ lúc nào những bởi chỉ vì một chuyện buồn tha nhân không liên can gì đến mình. Tôi còn hay lẩn thẩn tự nghĩ dù phận đời người có vô thường, nhưng ở nơi ấy dù có tôi hay không nước dưới chân Cầu Đôi vẫn cứ trôi xuôi về ngang qua Xóm Cổng ngày xưa đã từng có Bà Ngoại, Ông Ngoại, các Dì, và cậu Bảy Ời và có cả tôi ngày xưa còn bé xíu trước khi chảy ra cửa biển Thị Nại, đổ ra biển cả Thái Bình Dương, và biết đâu không chảy chảy ngang qua cả nước Mỹ này? Nhưng có một điều chẳng lạ lùng gì: Tôi mãi mãi vẫn không nói lưu loát được thứ tiếng phương xa này, khác với thứ tiếng mẹ đẻ mà ngày xưa còn bé tôi đã bắt đầu bập bẹ tiếng nói ba... ba... chào đời trong ngôi nhà Ngoại tôi. Quê Ngoại thân thương của tôi với những cơn gió nồm trưa hè hay đêm trăng mật vàng đã từng một thời mù xa như trong cổ tích đã từng vuốt ve tâm hồn tôi. Nhưng bồi hồi tiếc nuối biết bao Quê Ngoại tôi còn đó mà đã mù sa rồi... thật mù sa... Xóm Cổng Quê Ngoại của những ngày xưa thuở tôi còn bé!
(3:11 quá khuya)
Stanton, Little Saigon California Mar. 2003 – May 11th, 2025
*Người dân quê tôi hay gọi là tàu lửa hay xe lửa, thay vì tàu hỏa như miền khác
Lê Minh Hiền
hienlehuong@gmail.com

No comments:
Post a Comment