CÓ LẼ NÀO…
Có lẽ nào ngày mai không còn
nữa
Trời thêm xa và đất lại thật
gần
Có lẽ nào chốn trầm luân cõi
tạm
Nẻo nào xa còn lưu luyến phân
vân.
Có lẽ nào từ mong manh sợi
khói
Từng ngày qua đau đáu trái
tim nhàu
Có lẽ nào con sông quê thuở
ấy
Bàng bạc trôi viễn xứ chở
niềm đau.
Có lẽ nào hoàng hôn chênh
chếch bóng
Nghiêng nghiêng đêm mộng mị
đến nao lòng
Có lẽ nào lá vàng rơi thật khẽ
Mây biết buồn và sao cũng
bâng khuâng.
Có lẽ nào nắng tàn phai trước
ngõ
Bóng trưa hè thảng thốt nén
niềm đau
Có lẽ nào bài thơ tình dang
dở
Gió ru hời hạt nắng cũng xôn
xao…
HOÀI HUYỀNTHANH
4/2014
Lời
Bình: Châu Thạch
Thảo luận về bài thơ “Có lẽ nào” của Hoài
Huyền Thanh, nhà thơ Đan Thụy đã viết như sau: “Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, thanh
thoát nhưng cho ta những dấu hỏi thật lớn, càng suy nghĩ càng nao lòng”. Quả
vậy, vì những dấu hỏi đó tác giả lại đem đặt đàng sau những câu khẳng định, hay
đúng ra hỏi về những điều mà mọi người đã từng nếm trải trong cuộc sống trần
gian. Bài thơ có liên tục những câu hỏi, dồn đập những câu hỏi, thắc mắc về
những điều phi lý xảy ra trong cuộc đời, có tác dụng khơi dậy những niềm đau
của thân phận kiếp người đã hằn sâu trong tâm khảm, được ngụy trang bằng những
niềm vui tạm bợ giữa trần gian. Cái chữ “ nao lòng” mà nhà thơ Đan Thụy đã dùng
là ý thức được nỗi đau đứng bên bờ vực thẳm mà sự đen tối phía dưới kia không
bao giở giải được. Hãy nao lòng vì sự
chết đã được dùng ngay trong vế nhập đề:
Có lẽ nào ngày mai không còn
nữa
Trời thêm xa và đất lại thật
gần
Có lẽ nào chốn trầm luân cõi
tạm
Nẻo nào xa còn lưu luyến phân
vân.
“ Có lẽ nào” không đánh dấu
hỏi phía sau là tiếng kêu thảng thốt, ta thán, trách móc về lẽ vô thường và nỗi
đau dằn vặt trong ý thức con người về sự
vô lý cứ yêu thương, lưu luyến nó. Bốn câu thơ nầy hoàn toàn đem triết lý nhà
Phật vào thơ nhưng nó không giải thích triết lý mà đặt ra thành nan đề cho
người đọc thơ suy nghiệm. Và rồi từ sự suy nghiêm ấy con người sẽ thấy ngõ cụt
của vấn đề, để con người càng ưu tư đến độ phải cùng nhà thơ thốt lên lời than
thở “ Nẻo nào xa còn lưu luyên phân vân”. Chữ “ Có lẽ nào” ở đây nhắc chúng ta
liên nghĩ đến có lẽ ngày xưa thái tử Tất-Đạt-Đa cũng vì ba chữ nầy mà rời bỏ
hoàng cung đi tìm con đường giải thoát. Tất-Đạt-Đa thành Phật nhưng ta thì vẫn
còn “trầm luân cõi tạm” nên cũng trầm luân trong câu hỏi “có lẽ nào” kia. Bốn
câu thơ cho ta hiểu thêm về “khổ đế” trong triết lý nhà Phật không bằng suy
luận của lý trí mà bằng cảm xúc của tâm hồn.
Ở vế thứ hai, nhà thơ Hoài Huyền Thanh cởi bỏ
đi chiếc áo đóng vai tu sĩ, lộ nguyên hình một nhà thơ với những yếu đuối trong
tâm hồn, rung động đến từ mong manh của sợi khói đến niềm đau trôi dạt trên con
sông quê:
Có lẽ nào từ mong manh sợi
khói
Từng ngày qua đau đáu trái
tim nhàu
Có lẽ nào con sông quê thuở
ấy
Bàng bạc trôi viễn xứ chở
niềm đau.
“Có lẽ nào” bây giờ không hỏi
về điều cao trọng của kiếp nhân sinh mà hỏi về điều thầm lặng dơn sơ xảy ra
trong lòng người nhưng nó cũng nặng nề không khác chi những điều cao trọng. Sợi
khói lại đau đáu nằm trong trái tim. Con sông quê mà lại chở niềm đau, nghĩa là
con sông ấy với hình ảnh của nó cũng đang trôi hoài trong trái tim tác giả. Tác
giả ý niệm về kỷ niệm đời người mong manh như sợi khói nhưng nó lại không tan
biến đi mà hằn sâu trong trí nhớ, đáu đáu ở trong tim. Sự mong manh trở thành
bền vững và sự bền vững chất chứa cái mong manh trong ý thơ làm cho con người
như biến thành sợi khói bay về vùng trời kỷ niệm. Bởi đó mà sự “Bàng bạc trôi
về viễn xứ chở niềm đau”cũng xảy ra trong lòng người khi đọc thơ của tác giả.
Qua vế thứ ba nỗi khắc khỏai
về sự tàn phai, về sự tận cùng, về sự lâm chung của ngày như sự lâm chung của
cuộc đời cứ bâng khuâng trong lòng tác giả . Nỗi buồn muôn thưở ấy được diễn tả
bằng lời thơ trầm xuống như những tiếng thở dài não nuột nối theo nhau:
Có lẽ nào hoàng hôn chênh chếch
bóng
Nghiêng nghiêng đêm mộng mị
đến nao lòng
Có lẽ nào lá vàng rơi thật
khẽ
Mây biết buồn và sao cũng
bâng khuâng.
Hoàng hôn chếch bóng là nan
đề, đêm mộng mị là nan đề, lá vàng rơi là nan đề, mây cũng là nan đề, tất cả
mọi biến động trong không gian, trong thời gian, trong vạn vật đều mang nan đề
biến thành nỗi ưu tư trong lòng tác giả. “ Có lẽ nào” bây giờ là dấu hỏi cho
những điều xảy ra trước mắt, những điều mà cái nhìn làm cho cuộc đời trở nên bi
quan yếm thế. Tất cả cảnh trong thơ đều mang tâm trạng con người cho nên thơ đã
lồng được cái cao rộng của hồn người vào chung cùng vạn vật.
Ở vế chót bài thơ, điều chủ yếu nén sâu trong
lòng tác giả đến bây giờ mới được thốt lên. Đó là tình yêu, thứ mà chỉ một mình
nó đã làm cho trời đất, muôn vật quay cuồng:
Có lẽ nào nắng tàn phai trước
ngõ
Bóng trưa hè thảng thốt nén
niềm đau
Có lẽ nào bài thơ tình dang
dở
Gió ru hời hạt nắng cũng xôn
xao…
Cả bài thơ sẽ không thành
hình nếu “bài thơ tình” không dang dở. “ Bài thơ tình dang dở’ là mấu chót của
bài thơ “Có lẽ nào”, là điều kéo theo những trải nghiệm cuộc đời dưới đôi mắt
bi quan, là điều trung tâm cho ý nghĩa của bài thơ. “ Bài thơ tình dang
dở” làm cho toàn bộ bài thơ đau đáu nỗi
suy tư bi luỵ về cuộc đời trở nên lảng mạn, làm cho bài thơ triết lý khô khan
trở nên trử tình, khiến người đọc thơ đương ở trong thế giới sầu bước qua thế giới của mộng mơ. Tác giả
thật khéo léo khi đem cả luật vô thường, đời người, quê hương đưa con người lên
đến đích đỉnh cao để cùng với mình buông tiếng thở dài hoài niệm tình yêu .
Thơ Hoài Huyền Thanh khi nào cũng là sự trầm
lắng chất chứa suy tư và kỷ niệm. Tiếng thơ Hoài Huyền Thanh dầu bắng những câu
từ ngắn gọn, thoảng như cơn gió bay qua song cửa hay dài bằng những vế thơ nối
tiếp cũng đều đem đến hồn ta sự bâng khuâng của hoài niệm , sự man mác của tình
yêu, sự vương vấn trong suy nghiệm và sự khoan khoái khi thấy một tâm hồn nên
thơ trải đều thanh âm trên bình diện cả bài thơ.
Châu Thạch
No comments:
Post a Comment