Nguyễn Đại Duẫn
Truyện ngắn
Hương dừa
Buổi lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày giải
phóng tỉnh Bình Định kết thúc, tôi được gặp lại những người đồng đội sau bao
nhiêu năm xa cách. Y Muôn nhìn tôi với vẻ trách móc:
- Cậu Chiến là tệ lắm nhé. Lặn đi
đâu biền biệt mấy chục năm mà không một lần quay lại!. Tôi hơi cúi thấp đầu như
nhận lỗi với chị:
- Dạ chuyện dài lắm chị ạ! Rồi em sẽ
kể chị nghe.
Tôi và Đại tá Nguyễn Hoàng được vợ
chồng Y Muôn mời về nhà chơi. Chiếc xe phóng êm trên con đường về Tam Quan nơi
chỗ vợ chồng Y Muôn đang sinh sống. Tiếng xe chạy, tiếng còi xin đường ồn ả
trên phố. Gần hai tiếng sau, xe đỗ xịch trước ngôi nhà hai tầng khang trang nấp
dưới rặng dừa cổ thụ. Những tàu dừa đung đưa trong ngọn gió biển lao xao. Trước
sân, hai chậu hoa giấy được chủ nhân tạo dáng thế thác đổ rất đẹp đang nở bung
những nụ hoa mỏng manh, màu hồng tím. Trên những thân dừa là những giò lan hồ
điệp, đai châu đang khoe sắc. Chị Y Muôn đon đả mời chúng tôi thưởng thức nước
dừa và những sản phẩm làm ra từ dừa do nhà máy của gia đình chị sản xuất.
Trời về chiều rừng dừa xào xạc hòa
trong tiếng sóng biển rì rào. Tôi tha thẩn một mình dạo quanh khu rừng dừa để
mong sao tìm về một vài kỷ niệm thân quen. Ngọn gió hây hẩy như đưa tôi về với
khung cảnh yên bình, trong lành, xua tan phiền muộn sau những áp lực cuộc sống.
Cứ ngỡ mình như đang quay về với thời niên thiếu. Quê tôi ở Hoài Phú, cách
Tam Quan vài con kênh. Má tôi là tổ trưởng du kích xã, hy sinh trong trận đánh
tháng 3 năm 1966 tại Tam Quan. Cha tôi, một cán bộ kháng chiến hoạt động bí mật
bị lộ nên được cấp trên cho đi tập kết. Tháng 9 năm 1966, khi tôi vừa 10 tuổi
tôi cũng được theo cha. Ra miền Bắc, tôi được học hành chu đáo tại Trường Thiếu
sinh Quân ở Việt Trì, Hà Nội. Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, cha tôi được điều động
trở lại miền Nam quê nhà để gây dựng phong trào. Năm 1974, được tin cha hy
sinh, tôi buồn lắm, khi đó tôi đang học dở lớp 10. Nhiều đêm không ngủ, tôi nhớ
cha, nhớ má, nhớ rừng dừa. Và rồi tôi làm đơn tình nguyện nhập ngũ lên đường
đánh giặc. Không biết cơ duyên nào tôi được biên chế về Sư đoàn 3 và tham gia
chiến đấu tại quê nhà.
Tối đến, Đại tá Nguyễn Hoàng đang
cùng anh Thân bên ấm trà “ôn cố tri tân”, vui vẻ hàn huyên. Tôi cùng chị Y Muôn
xin phép đi dạo quanh rừng dừa. Đi đến bên một bờ kênh, có chiếc cầu bắc ngang,
Y Muôn nhẹ nhàng nắm tay tôi hỏi nhỏ:
- Cậu Chiến còn nhớ chỗ này nữa
không?. Tôi dán mắt nhìn, qua ánh trăng rơi trên những tàu dừa xuống, chiếc cầu
bắc ngang là một thân dừa khô, có tay vịn lắt lẻo để nắm tay đi qua kênh. Tôi
chưa kịp nói thì Y Muôn đã ngắt luồng suy nghĩ của tôi:
- Đây là nơi ngày xưa tôi đã gặp cậu
và “ông xã” nhà tôi nằm ngất lịm sau cuộc chiến đấu tại đồn Tam Quan đó! Tôi
nhìn chị một hồi rồi nói:
- Mọi thứ đổi thay nhiều quá! Rừng
dừa này ngày trước xơ xác đạn bom, cằn cỗi đâu tốt tươi, quả đầy buồng như bây
giờ.
Đi một đoạn chị kéo tay tôi ngồi xuống
mô đất trải một vạt cỏ mềm. Hai chúng tôi nhìn ánh trăng như chiếc đĩa khổng lồ
treo lơ lửng trên đọt dừa. Tôi nhìn Y Muôn, rồi nhìn ra hướng biển nơi có ngọn
gió nồm mát rượi đang ùa vào mơn man trên khuôn mặt xương xương của tôi, lất phất
trên mái tóc của chị. Hương dầu dừa trên mái tóc Y Muôn phảng phất như kéo tôi
về những ký ức ngày nào.
***
Cuộc chiến đấu kéo dài từ sáng đến
xế chiều vẫn chưa kết thúc, đó là ngày 28 tháng 3 năm 1975. Những tràng đại
liên, những loạt đạn tiểu liên trong đồn địch bắn ra loạn xạ. Tiếng AK của quân
ta cũng điểm xạ nghe đanh gọn. Lợi dụng tuyến giao thông hào của địch, bộ đội
ta đang cố thủ chờ thời cơ để tấn công. Thỉnh thoảng vài chục mét, hào được
khoét sâu vào bên hông để ẩn núp, tránh đạn cối hay pháo địch. Đại đội trưởng
Nguyễn Hoàng trực tiếp chỉ huy trận đánh đang ở hướng phía Tây, nơi đồn địch
đang khạc từng tràng đạn lửa hòng ngăn đường tiến quân ta. Đạn bay vèo vèo, bụi
đất mù mịt. Đại đội trưởng Nguyễn Hoàng ra lệnh cho tôi kết bộc phá thành khối
tiến lên phá hàng rào dây thép gai để mở đường tiến cho quân ta. Phía cánh
trái, Trung đội 1 đang yểm trợ bằng hỏa lực súng cối nhằm thu hút hướng bắn của
địch. Bọn địch trong đồn không dám liều mạng xông ra nhưng chúng bắn trả rất
rát, tưởng chừng như có bao nhiêu đạn chúng đều vãi hết về phía chúng tôi. Trời
về chiều, cái nắng cuối tháng Ba còn hầm hập. Mồ hôi, bụi khói lem luốc trên
khuôn mặt mọi người. Bụng đói, người thấm mệt, còn ít nước sót lại trong bi
đông tôi dốc hết cho đỡ khô họng. Tôi bò men theo con kênh có rặng dừa che khuất
tầm nhìn của bọn địch, khi tiếp được bên hàng rào kẽm gai, tôi ốp khối bộc phá
vào và lui ra xa châm ngòi nổ. Một cột lửa bùng lên, lớp kẽm gai bay xa vài
mét, cánh cửa tập hậu đã được mở rộng. Anh em đơn vị nghe tiếng hô xung phong của
đại đội trưởng cùng hưởng ứng thét to và ào lên. Tôi vừa quay lưng bò vòng trở
lại để lấy thêm đạn thì thấy một tên lính ngụy áo quần rằn ri đang lom khom
trong chiến hào cách tôi khoảng chừng mười mét. Tôi nằm im chờ đợi. Khi tên này
đến gần khoảng độ bốn mét tôi vùng dậy bật lưỡi lê xông thẳng vào người hắn.
Bỗng một loạt pháo 105 ly tới tấp dội
xuống. Người tôi vùi trong lớp đát cát, tai ong ong trong tiếng thét xung phong
của đồng đội và rồi ngất đi.
Tôi mơ màng và tỉnh dậy khoảng độ
ba giờ sáng, ngơ ngác không biết mình mơ hay thật, tại sao lại nằm ở đây? Tôi
nghe tiếng người đàn ông nói:
- Chú bộ đội tỉnh rồi con ơi!. Tôi
từ từ ngồi dậy và xin ngụm nước. Uống xong, tôi nhìn người đàn ông dò hỏi:
- Đây là đâu vậy bác? Người
đàn ông nhìn tôi nói:
- Đây là nhà của tôi, cách chỗ các
chú đánh đồn Tam Quan khoảng hơn cây số. Nói rồi ông bảo cô con gái lấy bát
cháo cho tôi ăn, rồi ông cho biết:
- Khi bộ đội phối hợp nhịp nhàng với
các mũi tấn công từ bên ngoài vào, quân và dân Tam Quan đã nổi dậy hỗ trợ các lực
lượng vũ trang đánh chiếm nhiều mục tiêu và các cơ quan quan trọng, làm tan rã
toàn bộ quân địch. Sau khi giải quyết xong công việc, bàn giao lại cho địa
phương, đoàn quân đã tiến về thị xã Quy Nhơn.
Ăn xong bát cháo tôi đã tỉnh
táo, người đã đỡ mệt. Tôi thao thức không tài nào chợp mắt, cứ hình dung lại những
sự việc đã xảy ra. Không biết giờ đơn vị đang ở đâu, tìm đơn vị nơi nào? Tâm trạng
tôi phấn chấn với niềm vui chiến thắng của đơn vị, lòng tôi cứ cồn cào mong trời
mau sáng.
Trời vừa tang tảng, sức khỏe tôi có
phần đã ổn, định bụng sẽ trốn gia đình đi tìm đơn vị nhưng cô con gái chủ nhà
tinh ý nhìn tôi:
- Bộ dạng này anh định đi đâu? Anh
xem lại mình coi!. Trên người tôi bộ quần áo bà ba nâu đang mặc là của của ông
chủ nhà, đôi dép đã tuột hết quai hậu. Tôi vươn vai đứng dậy, bỗng nghe tiếng
rên ở phía giường nhà sau. Tôi hỏi cô gái:
- Này cô! Sau nhà mình có ai rên rỉ
vậy?.
Ông chủ nhà dậy pha ấm trà mời tôi
uống mừng chiến thắng. Ông cho tôi biết, khi ông theo đội du kích dẫn dường cho
bộ đội tiến về thị xã Quy Nhơn thì thấy tình cảnh một tên lính ngụy, áo rằn ri
bị thương ở chân chảy máu, nằm đè người lên anh bộ đội giải phóng đang bất tỉnh,
máu ri rỉ lỗ tai. Ông gọi thêm mấy du kích cùng con gái đưa hai người về nhà,
lúc đó khoảng nửa đêm. Ông đắp thuốc và băng bó cho tên lính ngụy, lau chùi sạch
sẽ và thay áo quần cho tôi. Rồi ông bảo tôi:
-Tình hình bên ngoài đang lộn xộn
không biết đâu mà lần. Hai người chỉ bị ngất do sức ép của đạn pháo. Vết thương
không nghiêm trọng lắm. Đợi khi nào khỏe lại rồi tìm cách giải quyết.
Qua tìm hiểu tôi biết ông chủ nhà
có tên là A Đăm còn cô gái là Y Muôn. Một ngày qua đi, tôi được bố con Y Muôn
chăm sóc chu đáo nên sức khỏe đã có phần tốt hơn. Tên lính ngụy cũng đã tỉnh.
Tôi vào chỗ nằm của cậu ta cất tiếng:
- Sao! Đã đỡ hơn chưa?. Tên lính ngụy
nhìn tôi mặt nhợt nhạt, sợ sệt:
- Dạ, cảm ơn anh, em đã đỡ nhiều rồi.
Tôi động viên cậu ta :
- Không có gì phải sợ. Chúng ta đều
cùng là người Việt Nam, nhưng do hậu quả chiến tranh gây ra, nên trở thành hai
người trên hai chiến tuyến, là kẻ thù của nhau. Giờ quê hương đã giải phóng rồi,
chế độ ngụy quyền đang sụp đổ, dân tộc lại hòa hợp, trở thành người một nhà
thôi. Tên lính ngụy nghe tôi giảng giải miệng lắp bắp dạ liên hồi. Tôi hỏi:
- Vậy cậu tên gì, quê ở đâu?.
- Dạ em sinh năm con khỉ nên mẹ đặt
tên em là Thân, em ở Phù Cát. Em mới vô lính một năm nay. Anh tha cho, em mới
tham gia trận đầu.
- Tôi tên Chiến, cũng tuổi Thân.
Chúng mình cứ xưng hô cậu tớ cho thoải mái nhé”.
Y Muôn đi công tác về gấp áo quần,
xâu lại dép cho tôi. Rồi cô thông báo cho tôi biết ngày 31 tháng 3 năm 1975,
quân và dân ta đã làm chủ thế trận tại Hoài Nhơn. Những tin vui thắng trận cứ dồn
dập làm cho tôi trào dâng một cảm xúc vui mừng khó tả. Và Y Muôn còn cho biết
cô đã bắt được liên lạc với đơn vị tôi, ngày mai sẽ tìm cách đưa tôi đi.
Đêm, trăng thượng tuần nấp sau gốc
dừa. Những tàu dừa lòa xòa đung đưa làm ánh trăng vỡ vụn nhưng cũng đủ sáng
trên con đường. Tôi cùng Y Muôn dắt nhau ra chỗ gò đất mà tôi đã bị thương như
để ghi nhớ một kỷ niệm. Ngày mai tôi sẽ xa Y Muôn, xa mảnh đất nơi đã cứu sống
tôi, lòng tôi thấy bồi hồi, luyến nhớ. Mới chỉ ba ngày thôi mà tôi thấy như
thân thiết với Y Muôn từ lâu. Ngồi bên Y Muôn, mùi dầu dừa phảng phất trên mái
tóc làm cho tôi có cảm giác lâng lâng. Mùi thịt da con gái cứ xâm lấn vào tim
tôi. Thỉnh thoảng ngọn gió biển nhè nhẹ thoảng qua vất những sợị tóc mơn trớn
sang má tôi. Nhìn Y Muôn tôi hỏi nhỏ:
- Y Muôn là người Bana à?.
- Dạ! Em là người Bana. Năm 1965, mẹ
em mất, cha đưa em về lập nghiệp ở đây. Cha em về làm nghề trồng dừa thuê. Thỉnh
thoảng ông vào rừng hái lá thuốc về chữa bệnh cho mọi người. Nghề thuốc là nghề
gia truyền của nhà em đó. Y Muôn nhìn tôi xem có phản ứng gì không. Tôi không
nói gì chỉ gật đầu. Y Muôn bứt một lá cỏ, tay cô vụng về ngắt ra từng khúc ngắn
rồi nói tiếp:
- Lớn lên em tham gia vào đội du
kích địa phương, làm giao liên đưa các đoàn bộ đội bí mật về đánh địch. Em cũng
tham gia nhiều trận đánh rồi nhé. Tôi nhìn Y Muôn với tấm lòng cảm phục, rồi
lái sang chuyện khác:
- Vậy Y Muôn đã có anh nào dạm ngõ
trầu cau chưa? Có thích lấy chồng bộ đội tôi làm mối cho. Y Muôn nhìn tôi bẽn lẽn:
- Em mới 21 tuổi, đang còn trẻ con
chứ đã nghĩ chuyện yêu đương gì đâu. Mà em không dám ưng các anh bộ đội đâu! Biết
bộ đội có ưng người dân tộc như em không?.
- Vậy là Y Muôn hơn tôi hai tuổi.
Nhưng thấy Y Muôn xinh đẹp, trẻ trung nên tôi cứ tưởng Y Muôn nhỏ tuổi hơn tôi.
Ánh mắt tôi đang nhìn về xa xăm, Y Muôn tưởng tôi giận nên nhỏ nhẹ:
- Sợ cái bụng bộ đội nói vui thôi.
Nhưng Bana với Kinh cũng là người Việt Nam cả phải không cậu!
Y Muôn đổi cách xưng hô một cách
mau lẹ. Hai chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau không nói gì. Không gian về khuya càng
yên ắng, tiếng súng đã im bặt mấy ngày nay. Thỉnh thoảng đâu đó nghe tiếng đùng
của đạn pháo đơn điệu. Tôi nhìn Y Muôn, khuôn mặt thanh tú, đôi mắt bồ câu tinh
nghịch. Mấy ngày được Y Muôn chăm sóc như người chị, người mẹ tôi thấy mình đã
khỏe thêm, lòng thầm cảm ơn bố A Đăm và Y Muôn nhiều lắm. Vậy là ngày mai phải
xa Y Muôn, tôi muốn nói một điều gì đó mà sao khó quá. Hít một hơi thật sâu, lấy
lại bình tĩnh tôi nhìn vào mắt Y Muôn:
- Nếu Y Muôn yêu bộ đội thì hãy chờ…
chờ đợi Chiến nhé. Hẹn ngày thống nhất Chiến sẽ tìm về với Y Muôn. Nói rồi tôi
bạo dạn hôn lên tóc, lên má Y Muôn. Dưới ánh trăng mờ ảo tôi thấy mặt Y Muôn đỏ
lựng lên.
***
Ngọn
gió ùa qua xua đi mấy con muỗi đang vo ve như đưa tôi về thực tại. Y Muôn nhìn
tôi, phá vỡ sự im lặng cất tiếng:
- Vậy sau giải phóng đến giờ cậu đi đâu
bặt tin, bắt Y Muôn chờ đợi đến bạc cả tóc. Nắm bàn tay xương xương của Y Muôn
đang nóng ấm, tôi kể cho Y Muôn nghe những năm tháng cuộc đời lận đận của
mình:
- Hết chiến tranh, cấp trên cho Chiến
đi học sĩ quan ngoài Hà Nội. Học xong lại lên biên giới phía Bắc đánh quân bành
trướng ở Lạng Sơn. Trong một trận chiến đấu ác liệt, Chiến bị thương nặng, rồi
lạc đơn vị được một gia đình người dân tộc Dao cứu sống, Chiến mất liên lạc với
đơn vị và rồi… ở lại thành con rể của bản làng. Vợ Chiến sinh được đứa con trai
đặt tên là Thắng. Cuộc sống sau chiến tranh cực khổ, thiếu thốn. Vợ đi cuốc
nương bị trúng mìn và mất. Chiến một mình nuôi con vất vả trăm đường. Ai cũng bảo
đi thêm bước nữa nhưng lòng Chiến đã băng lạnh. Mấy lần khoác ba lô định đi tìm
Y Muôn nhưng cảm thấy xấu hổ vì Chiến thấy có lỗi với lời hẹn năm xưa nên đành
nuốt nỗi buồn vào trong lòng. Thằng Thắng nay đã học xong Đại học Kinh tế và
đang làm luận văn thạc sĩ. Mới gần đây nó kết nối được với thủ trưởng Hoàng qua
trang mạng xã hội, nhờ Đại tá Nguyễn Hoàng mới có cuộc hội ngộ này đây. Mà thôi
chuyện xưa như cổ tích rồi được gặp lại người thân là Chiến mừng lắm. Mà này!
Chuyện Thân là chồng của Y Muôn là sao?. Buông tay tôi Y Muôn kể chuyện về
mình:
- Sau ngày giải phóng Y Muôn được
phân công làm công tác Đoàn, rồi phụ nữ xã. Nhưng một số người xấu làm đơn tố
giác gia đình Y Muôn đã cứu và nuôi tên lính ngụy nên cấp trên cho Y Muôn nghỉ
công tác. Lúc bấy giờ Y Muôn buồn lắm, ngày đêm cứ mong tin tức của Chiến, chờ
năm này qua năm khác vẫn biệt tin. Nỗi chờ mong yêu thương đã giấu kín trong
lòng, còn một nỗi chờ khác là Chiến về để minh oan cho Y Muôn! Oan ức, chịu tiếng
xấu, Y Muôn ngày đêm buồn bã, nhiều lúc nghĩ quẩn… Tuổi xuân dần qua đi, những
sợi tóc mượt mà hương dầu dừa bắt đầu xơ cứng. Ông Thân, sau khi đi học tập cải
tạo về ông ấy đi làm phụ hồ, bốc vác ở bến cá, bọn đầu gấu vì giành giật địa
bàn làm ăn đã đánh cho gãy chân. Sau khi chữa lành bệnh lần mò tìm về với Y
Muôn. Hai người thông cảm hoàn cảnh của nhau và như có sự định mệnh, ông Thân
và Y Muôn nên duyên vợ chồng. Còn cha, vì buồn bực chuyện con cái không được
như người ta nên sinh ra uống rượu, ông mất sau một lần tai biến nặng. Tưởng chừng
như núi sập đè nặng lên cuộc đời Y Muôn. May sao gặp Đại tá Hoàng, Y Muôn cũng
được minh oan mọi việc. Cấp trên muốn đưa Y Muôn trở lại công tác nhưng Y Muôn
không nhận lời, đầu cũng đã hai thứ tóc rồi. Vợ chồng Y Muôn hùn vốn, vay
mượn lối xóm mua mảnh đất này trồng rừng dừa. Ngày tháng cứ lầm lũi bên rừng dừa
đợi ngày thu hoạch. Được mùa, dừa bán không xuể lại hì hục, thuê nhân công, đầu
tư vốn xây dựng nhà máy chế biến nước dừa đóng chai, làm bánh kẹo dừa đặc sản,
xơ dừa thì làm chổi, thân dừa thì làm đũa… Thương hiệu có tiếng trên mảnh đất
Tam Quan này nên khách hàng đặt mua nhiều lắm. Khổ nỗi, Y Muôn bị nhiễm chất độc
da cam, không sinh được cho ông Thân đứa con. Nhiều lần động viên ông Thân kiếm
bên ngoài để có người nối dõi nhưng ông ấy bảo, mình có hàng trăm đứa con là
con em cựu binh, thương, bệnh binh làm công nhân đó thôi. Nghe ổng nói vậy Y
Muôn cũng yên tâm. Tiền thu nhập một phần tích cóp cho tuổi già, một phần Y
Muôn làm từ thiện cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Tôi lại nắm tay Y Muôn một lần nữa
và cất tiếng:
- Chiến có lỗi với Y Muôn nhiều lắm.
Cho Chiến xin lỗi nhé!. Tay Y Muôn để yên trong tay tôi, giọng nói nhẹ nhàng
trên khuôn mặt rắn rỏi, cất tiếng:
- Không ai có lỗi đâu cậu. Chỉ vì
chiến tranh, nó đã cướp đi bao cuộc sống, bao mơ ước của con người. Mà thôi!
Chuyện đã qua rồi…!
***
Sáng nay vợ chồng Y Muôn dẫn tôi và
Đại tá Nguyễn Hoàng lên thăm khu xưởng chế biến dừa. Khu nhà xưởng thoáng đãng,
nấp bóng dưới rừng dừa mát mẻ. Bước vào nhà xưởng mùi dừa thơm dịu ngọt hòa quyện
hương biển làm cho không khí trở nên thanh thoát, một khung cảnh thanh bình đến
lạ. Y Muôn bóc một gói kẹo dừa mời chúng tôi, rồi nhìn Đại tá Hoàng nói như để
cho tôi cùng nghe:
- Công nhân ở đây đa số là con em cựu
chiến binh, con em thương, bệnh binh đó anh. Em cũng muốn giúp đỡ họ, san sẻ một
phần trong cuộc sống. Tôi cầm chiếc kẹo dừa trên tay, mùi hương dừa cứ dâng lên
đầy lồng ngực.
Bốn bàn tay nắm chặt lưu luyến tạm
biệt. Thân âu yếm nhìn vợ rồi nói với tôi:
- Anh Chiến! Đợt này về anh cho thằng
Thắng vào đây giúp cho vợ chồng tôi quản lý nhà xưởng nhé!.
Hương dừa cứ quấn theo chúng tôi
dâng tràn cả lên xe. Mùi hương chứa chan kỷ niệm cứ lâng lâng, dịu ngọt.
NGUYỄN ĐẠI DUẪN
Hội
viên Hội VHNT Quảng Trị
Số nhà 51, đường Nguyễn Hữu Cảnh, thôn Hùng Phú, xã Quảng Ninh, tỉnh Quảng Trị.
.jpg)
No comments:
Post a Comment