TRĂNG THÁNG BẢY
Tháng Bảy nước nhảy qua bờ. Những trận mưa dai dẳng tưởng che lấp hết mùa trăng Hội Vu lan báo hiếu; nhưng sau cơn mưa trời quang mây tạnh, Trời Phật xót thương những người con hiếu thảo đang chờ mong một mùa trăng sáng đẹp để quay trở về dưới mái nhà xưa.
Đêm nay, bầu trời vẫn còn những đám mây bàng bạc, nhưng trăng vẫn sáng không bị mây che khuất. Em rất vui được nắm tay mẹ và chị đi bộ đến chùa, quãng đường chỉ nửa cây số thôi, nhưng hồi còn bé, em mỏi chân, chị phải cõng em khi lên con Dốc Ma này. Mới ngày kia chị đang ở một nơi rất xa đến cả nghìn cây số, bây giờ chị đã có mặt ở nhà, căn nhà cha mẹ sinh thành nuôi dạy chị em mình suốt cả thời thơ ấu. Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa sống lại trong chị trong em. Đi lên tới đỉnh dốc, chị nắm tay em ngồi xuống bên thảm cỏ xanh ngày nào, chị vừa ngắm trăng vừa hỏi lại câu hỏi lững lờ giống như ngày xưa chị đã hỏi bằng bốn câu thơ của nhà thơ Quang Dũng (chị là dân Tú tài ban C mà!): “Mai chị về em gởi gì không?/ Mai chị về nhớ má em hồng/ Đường đi không gió lòng sao lạnh/ Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong”. Bốn câu thơ làm cho lòng em tê lạnh, bâng khuâng xót thương chị hiền da diết. Ngày mai chị tôi “đi” lấy chồng. Ông “Tây tiến”! Ông “Đôi mắt người Sơn Tây” ơi ! Ông không nói “đi” mà nói “về”. Em thích chữ “về” của ông lắm! Ông cũng giống như em ngày ấy rất ngây thơ, sợ chị đi lấy chồng người ta sẽ bắt mất chị. Em đâu có biết chị về nhà chồng rồi thỉnh thoảng chị về thăm mẹ và em chứ đâu có đi hoài không về. Ngày ấy em còn bé lắm, đứng bên đường khóc thút thít đôi mắt đỏ hoe, đôi má ướt lem luốc nhìn đoàn rước dâu đem chị đi mà trong lòng căm giận cái ông chú rể dễ ghét ấy. Chị từ trong đoàn rước dâu bước ra ôm em vào lòng, hai chị em đều khóc, “đường đi không gió lòng sao lạnh”, cả một mùa Hè bỗng dưng trời trở rét… Kỷ niệm ấy làm sao em có thể quên được, cũng tại con phố nhỏ này, biết bao nhiêu đêm rằm chị đưa em đi trên con dốc này đến chùa. Chị kể có lần chị chơi nhảy dây, em khó lắm không cho người lạ bồng, thế là chị bế em nhảy luôn; chị càng nhảy em càng khóc to, chị tức quá phát vô mông em một phát bàn tay in dấu năm ngón đỏ ong, chị biết mình giận mất khôn, chị lấy dầu tràm thoa cho em: “Chị thương! Cho chị xin lỗi, bữa ni trở đi chị không đánh em nữa mô; mai mốt chị không có lấy chồng, chị ở nhà bồng em thôi!”. Thế rồi một năm thôi nôi, em biết đi biết nói chị không phải bế bồng em nữa, em dần dần lớn lên quấn quýt bên tình thương của chị. Chị kể cho em nghe rất nhiều câu chuyện cổ tích, câu chuyện Lục Tích trong “Nhị thập tứ hiếu” mới sáu tuổi đến nhà họ Viên ăn tiệc xong giấu quả quýt mang về cho mẹ là câu chuyện em thích nhất. Thời đó chưa có lớp mẫu giáo, chị dạy chữ cái cho em bằng sách vỡ lòng “Bé học vần” của tác giả Cao Văn Thái, em thích lắm nên ngày nào cũng đọc cho đến bây giờ em vẫn còn thuộc:
Bà quý bé cho quả na/
Nhà em nhỏ có giàn nho/
Ong đốt ông sưng cả má/
Đi đổ đá ở đê xa/
Dì dắt dê dê do dự/
Bê bú bò bú hả hê/
Khỉ đố mèo leo cây khế/
Cu tí sợ sờ se sẻ/
Chị chờ em để che ô/…
Chị sinh hoạt trong ngành Thiếu, còn em ngành Oanh, đi đâu chị cũng đưa em theo, chùa Sắc Tứ, Tỉnh Hội, chùa Sư nữ Long An Nhan Biều,… quý thầy và quý sư cô rất quý và thương chị. Chị không bỏ sót một buổi thuyết pháp nào của quý giảng sư từ phía Nam ra; đặc biệt là buổi giảng của sư Giác Nhiên và sư Giác Huệ, em còn bé chưa hiểu gì nhiều, còn chị xem ra rất thích nghe pháp, những bài pháp thoại đã thấm nhuần vào tim óc của chị làm cho chị trở nên dịu hiền. Một hôm chị thưa với mẹ ngỏ ý xin được xuất gia, mẹ hơi bất ngờ nhưng cũng rất đắn đo để trả lời với chị: “Ba con mất sớm, nhà chỉ có ba mẹ con neo đơn hẩm hút, mẹ phải ngày hai bữa chợ, bây giờ nếu con đi để em một mình nhỏ dại thật là tội nghiệp!”. Chị nghe mẹ nói gần như khóc chị cũng khóc theo nước mắt tuôn trào, chị đâu nỡ bỏ mẹ và em mà đi theo con đường cát ái ly gia, một con đường chị rất muốn đi theo cho đến hết cuộc đời. Nhưng mẹ đâu có giữ chị lại được lâu, một người đàn ông xuất hiện và… chị theo nắng gió Sài Gòn, mang hồn quê đến lấy chồng xứ xa lắc xa lơ. Phận gái mười hai bến nước biết đường mô mà chọn, đêm đêm chị khóc nhớ nhà, mẹ thương chị cầu nguyện chư Phật gia hộ cho chị chân cứng đá mềm. Mỗi tuần chị gởi một lá thư. Đôi ba năm chị mới vê thăm mẹ một lần vào dịp Tết hay Lễ Vu lan.
Trong những năm tháng chị đi xa, em buồn quá, hút thuốc lá rất nhiều, thỉnh thoảng có hội hè hùa theo đám bạn bè tập tành chén chú chén anh, uống mãi trở thành nghiện, em đã phạm vào năm giới cấm, điều tệ hại là em rất xấu hổ nhưng lỡ ghiền mất rồi, có cách gì để cai thuốc lá và rượu? Không biết nhờ ai. Nhờ thầy nhờ bạn đạo thì không dám. Chỉ có chị mới có thể giúp em được thôi, em đã sáng măt ra bởi những dòng thư rất quý của chị Hiền từ xa gởi về: “Em yên tâm, chị không rầy la chi em đâu, đã là người thì ai rồi cũng có lúc lầm lỡ, chị tin ở em là một Phật tử luôn luôn biết sám hối và hướng thiện, ít nhiều em cũng biết một chút giáo lý của Phật. Đọc kinh Lăng Nghiêm em có nhớ một thời Đức Phật còn tại thế, ngài A Nan đang đi khất thực, bị nàng Ma Đăng Già cám dỗ, Đức Phật đã biết trước việc này bèn sai ngài Văn Thù đem thanh gươm trí tuệ đến cứu hộ giúp, ngài A Nan mới tỉnh giác thoát ra khỏi cái bẫy ngũ dục phàm trần. Người Phật tử đã có sẵn đức hạnh Bi trí dũng, em hãy bình tỉnh đem trí tuệ ra suy xét những hậu quả rất xấu của thuốc lá và bia rượu. Từ đó em sẽ biết sợ thuốc lá rượu bia, không còn xem chúng là bạn giải sầu nữa mà chính chúng là thủ phạm giết lần mòn cơ thể rút ngắn tuổi thọ của con người. Chị tin em sẽ cai được vì em của chị rất thông minh sáng suốt đủ dũng cảm để tránh xa chúng ngay bây giờ hôm nay. Chị chúc em thành công”. Thư của chị đầy sức thuyết phục giúp em có đủ quyết tâm để có thể xa rời được những ma lực cám dỗ ấy. Em mừng lắm! Từ ấy đến giờ em thật hạnh phúc vì không bị ràng buộc bởi những con ma men từng ngày tước đoạt đi cái tự do và nhân cách của con người.
Thời gian qua nhanh như bóng câu cửa sổ, năm ngoái cũng nhằm mùa Vu lan chị về thăm nhân dịp mừng thọ mẹ tuổi tám mươi. Chị cũng đã xấp xỉ sáu mươi rồi, con cái chị đã lớn có công ăn việc làm ổn định, nên chị có thể về bất cứ lúc nào. Chị muốn dự lễ Bông hồng cài áo tại ngôi chùa thân yêu nơi quê nhà, ai tha phương mà không ước hẹn ngày về, về chẳng để làm gì cả, chỉ ngồi bên mẹ thôi cũng đủ cho ta hạnh phúc nhất thế gian này. Đêm hôm đó mẹ bất ngờ bị tai biến, may có chị về chăm sóc cho mẹ cả tháng trời, mẹ bình phục xuất viện chị mới vào.
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào. Cầm micro đến gần bên mẹ và chị bắt đầu hát “Bông hồng cai áo” trong cái cảm giác hạnh phúc xen lẫn nước mắt, giọng ca của một người ở cái tuổi U 60 dù không hay lắm nhưng cũng khiến cho nhiều người ứa lệ.
Mấy năm nay, mẹ tuổi cao sức yếu, không dám cho mẹ đi bộ nửa cây số đến chùa. Được dự buổi lễ này mẹ vui lắm, xong lễ rồi mẹ vẫn chưa muốn về, vẫn còn sớm một đêm trăng rất đẹp, hai chị em đưa mẹ vào một quán nước trên con đường Hoàng Diệu bên bờ sông Hiếu, ngọn gió Nồm từ con sông thổi lên mát lạnh, chị thấy khỏe khoắn hơn bao giờ hết. Chị mê say ngắm vầng trăng in hình trong bóng nước, xa xa bên kia bờ những con thuyền đã đổ bến, nhà thơ Hàn Mặc Tử với khung cảnh như thế này ở thôn Vĩ Dạ đã tự hỏi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Và… thôn Vĩ nổi tiếng từ đó. Còn đây những con thuyền bên dòng sông Hiếu thân thương, chỉ muốn chở trăng về không muốn chở trăng đi. Chỉ cần nổi tiếng với chị với em và tất ca những ai yêu mến chính nơi này. Hãy ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh như mắt em long lanh, hãy uống dòng nước trong mạch nguồn Hiếu giang mát ngọt tình yêu thương. Đêm nay đi bên mẹ có vầng trăng soi sáng, chị hạnh phúc qua đi! Em cũng thế! Từng ngôi nhà góc phố con đường, từng câu chào nụ cười thân quen, xin chia sẻ hạnh phúc này với mọi người nơi đường xưa lối cũ nẻo về.
Có lẽ đêm nay phải thức với trăng thêm một chút, bắc chiếc chõng tre ra trước sân nhà, chị một bên em một bên ngồi cạnh mẹ, nghe mẹ kể về mẹ thời con gái:
“Mười lăm tuổi đi làm dâu khác xã/
Năm năm ngủ chung với mẹ chồng/
Trầu têm nước rót/
Quần xắn ống cao ống thấp/
Heo gà vườn ruộng bữa cây bữa cày/
Giặt áo cầu ao ngậm ngùi rơi nước mắt/
Thương mẹ già cha yếu chưa báo đáp một ngày/
Thương lũ em thơ còn đòi chị ẵm/
Thương đám bạn bè tóc khét nắng đồng trưa/
Thương con bê đôi mắt buồn rười rượi/
Thương lũy tre già rủ rỉ gió chiều đưa/
Thương củi nè nhen ấm nồng bếp sớm/
Thương bụi chuối đầu hồi quấn quýt đàn con/
Thương những đêm hè nhìn trăng vỡ giữa ao sương/
Hả hê cười khuấy nước/
Thương những ngày giáp tết, săm se áo mới xúm xít chợ làng xa/
Ngày đi em nép góc nhà/
Mẹ sụt sùi cầm tay không nói/
Bạn bè chen nhau vẫy gọi/
Tre pheo chìa nhánh ngăn đường/
Dừng tay hái rau, ngày đang trở tối/
Chiều chiều ra đứng cổng sau/
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Thơ-Kim Cúc).
Chị cũng vậy, có khác chi mẹ mấy đâu. Bao nhiêu năm ngỡ khô dòng nước mắt, buổi bạc đầu về khóc giữa quê hương. Mang theo một nửa hồn quê/ Hương ơi sống gởi thác về với hương. Đó là ước nguyện của chị, cua mẹ nhưng đâu có được. Sinh ra con gái ngoại tông/Quê cha thì bỏ quê chồng thì theo. Chị còn có chồng con gia thất. Những đứa con thân yêu đang cần chị trở về. Giống như chị đang cần về ngồi bên mẹ, chị ôm mẹ thật chặt không để cho mẹ biến mất trên cõi đời này. Chị noi gương Đức Mục Kiền Liên, nguyện làm con thảo, nhớ nghĩa thân sinh, ngày đêm nguyện cầu Bồ tát Đại Hiếu Mục Kiền Liên gia hộ cho mẹ thân tâm yên ổn. Ước gì mẹ sống mãi bên con cháu suốt đời.
Mẹ đã đi ngủ, gà nhà ai đã gáy đầu canh, đêm về khuya trăng Vu lan càng sáng tỏ, chỉ còn lại hai chị em, chị muốn thức để tâm sự cùng em thêm một chút nữa thôi, mai chị sẽ tạm biệt nơi dấu yêu này rồi, đường xa ngàn dặm một lần về một lần khó chị dành hết thời gian cho mẹ và em. Mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi mẹ tính tháng tính ngày/ Chín chữ cù lao. Công cha tựa non cao. Nghĩa mẹ như biển rộng. Thức trắng một đêm mới biết đêm dài vô tận. Ôi! Chị thương mẹ biết dường nào! Chị ơi! Em đã nhìn thấy bông hồng cài trên ngực áo chị áo em rất đẹp, và chị hãy nhìn lên bầu trời, ở đó… Trăng tháng Bảy, trăng cài bông hồng thắm. Mẹ Vu lan, mẹ tắm suối dịu hiền.
LÊ ĐÀN
(giacngo.vn)
MỘNG
Ba mươi năm lẻ qua rồi
Còn chiêm bao Nguyễn Hoàng ơi, Nguyễn Hoàng
Còn nghe hồi trống trường tan
Bờ mi ướt đẫm tuổi vàng dấu xưa
Áo không xanh mãi tuổi thơ
Khung trời hội cũ chiều mưa phố buồn
Quảng Trị 8.2005
ĐỌC TIẾP
Điều gì sẽ đến
1 comment:
Mình đọc nhièu bài văn bạn ở chân dung Nguyễn Hoàng. Thời nay mà còn víêt được như vậy là hiếm
Post a Comment