Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, April 11, 2012

LÀNG NẠI CỬU XƯA VÀ NAY - Võ Nguyên Thủy

Theo Đại Nam nhất thống chí, trong thập niên 60 của thế kỷ XV, chúa Nguyễn đưa dân chúng ở các tỉnh phía Bắc vào khai hoang lập ấp xây dựng dinh Cát ở Ái Tử, huyện Đăng Xương, đạo Quảng Trị (nay là huyện Triệu Phong) lập nên nhiều dinh cơ làng mạc. Làng Nại Cửu là một trong những địa danh được hình thành từ đó. Để ghi nhớ công lao của các bậc tiền nhân khai hoang lập ấp, nhân dân đã đóng góp công sức xây dựng ngôi đền thờ vị thành hoàng khai khẩn làng. Ngoài việc thờ 7 vị thiên thần, nhơn thần, đình còn là nơi thờ phụng các vị khoa bảng qua các triều đại.

Đình làng Nại Cửu bây giờ

Trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đình làng Nại Cửu còn gắn với nhiều sự kiện chính trị quan trọng của cách mạng. Nơi đây, vào tháng 3/1930 đã diễn ra cuộc họp của Ban vận động thành lập Đảng bộ lâm thời tỉnh Quảng Trị, đây là sự kiện nhằm chuẩn bị đầy đủ về tổ chức, tư tưởng cho sự ra đời Tỉnh ủy ngày 25/5/1930. Trước ngày 19/8/1945, đình làng Nại Cửu là địa điểm tập trung nhân dân các khu vực lân cận để nghe cấp trên trình bày kế hoạch giành chính quyền phủ Triệu Phong và sau này được Ủy ban cách mạng lâm thời huyện chọn làm điểm tổ chức hội nghị thành lập xã Phong La...

Chi khu Triệu phong đóng trên đất làng Nại cửu,phía nam Chi khu là trường Trung học Triệu phong,phía tây chỉ cách một con đường có Trung tâm huấn luyện Biệt chính (sau này lần lượt đổi tên là Xây dựng nông thôn), có giai đoạn đơn vị Xiti (City) đồn trú tại đây, trong khu vực này có mấy cái lô cốt của Pháp, nơi giam giữ những người tình nghi hoặc những người cọng sản bị bắt hàng đêm vọng ra những tiêng gào hét trong lúc CSĐB tra tấn họ. Phải nói rằng trước năm 1972 đây là khu vực quận lỵ Triệu phong nên khá sâm uất.


Nại Cửu là một làng có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời. Từ buổi khởi thủy đầu tiên, khai sơn phá thạch, canh điền lập ấp đặt ra hương hiệu cho đến ngày nay đã ngót hơn 500 năm. Trong quãng thời gian đó, nhiều thế hệ con cháu của các bậc tiền nhân đã chung lưng đấu cật xây đắp nên những truyền thống quý báu xứng đáng cho chúng ta hôm nay tự hào và ngưỡng vọng. Tuy nhiên, trải qua hơn 5 thế kỷ tồn tại với không biết bao nhiêu biến cố thăng trầm, làng xóm, hương hiệu, tập quán, phong tục thì vẫn còn đó song cương vực, địa giới, lăng mộ, đình chùa, miếu vũ và kể cả lòng người cũng lắm sự đổi thay. Việc nhận thức, tìm hiểu cội nguồn đặng hướng tới cái cao đẹp, thiện tâm là nguyện vọng thiết tha của mỗi người dân làng Nại Cửu đang sinh sống trong và ngoài nước. Bài viết này xin góp một vài hiểu biết nhỏ về mảnh đất thân thương trên đôi bờ Vĩnh Định- Làng Nại Cửu.

Lịch sử của một làng, một vùng cũng như một quốc gia, dân tộc là quá trình hình thành và phát triển liên tục qua nhiều năm tháng. Để có được một đất nước thanh bình, một làng xóm yên vui, tổ tiên chúng ta phải trải qua không biết bao nhiêu nỗi thăng trầm dâu bể. Cha ông chúng ta đã phải nếm trải qua vô vàn những cực nhọc, đắng cay. Cùng đoàn kết, gắn bó thương yêu đùm bọc lẫn nhau, cùng đổ mồ hôi xương máu giành giật với thiên nhiên khắc nghiệt và với các thế lực áp bức, đô hộ bạo tàn. Trên dặm dài hành trình gian khổ ấy, một bản sắc "con Hồng cháu Lạc" đã được hun đúc, một giá trị văn hóa Việt Nam đã được tích tụ, tô bồi như mạch nguồn cuộn chảy vĩnh hằng với thời gian…

Làng Nại Cửu nguyên là một vùng đất thuộc Châu Ô của vương quốc Chăm Pa. Châu này xưa là đất của một trong 15 bộ Việt Thường của quốc gia Văn Lang (Đại Việt sau này). Đời nhà Tấn thuộc vào quận Tượng Lâm. Đời Hán thuộc quận Nhật Nam và đời nhà Đường là huyện Cảnh Chân. Từ năm 1306, bằng cuộc hôn nhân mang đậm màu sắc chính trị Việt- Chiêm, nhà Trần gả công chúa Huyền Trân cho Vua Chàm là Chế Mân để nhận lấy món quà sính lễ là hai châu Ô- Lý. Sau đó, nhà Trần đổi Châu Ô thành Thuận Châu, Châu Hóa thành Hóa Châu rồi đưa quân lính tới trấn giữ và mộ dân vào đây khai khẩn vùng đất mới. Làng Nại Cửu cùng với rất nhiều làng khác trên địa bàn phía Nam sông Hiếu được hình thành trong bối cảnh đó. Sách "Ô châu cận lục " của học giả Dương Văn An viết năm 1553 đã có ghi tên làng Nại Cửu thuộc vào huyện Hải Lăng của Phủ Triệu Phong. Chính điều này gợi cho chúng ta một suy luận rằng: Làng Nại Cửu phải có từ trước đó (tức là trước năm 1553) thì Dương Văn An mới ghi vào. Hơn nữa đối chiếu với số đời của các họ tộc trong làng (họ cao nhất hơn 20 đời) và xét trên bình diện chung của lịch sử vùng đất Thuận Hóa sau năm 1306 thì có thể đóng khung một thời điểm tương đối chính xác cho sự hình thành làng Nại Cửu là nằm vào trong cuộc đại di dân dưới thời Vua Lê Thánh Tông, tức là vào khoảng từ năm 1476 đến năm 1497.

Gốc gác của những người Việt đầu tiên đến làng Nại Cửu là những người ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Theo một số truyền thuyết còn lưu lại tại các tộc họ thì 6 Ngài thủy tổ làng Nại Cửu gồm: Lê Nghi Dân, Nguyễn Xí, Phan Bá Đạt, Hoàng Phùng Anh, Võ Duy Bẩm, Trần Phái vốn là những vương công, tôn thần của nhà Lê. Do dính líu vào vụ án "Lệ Chi Viên " của Nguyễn Trãi nên các Ngài buộc phải lánh nạn đến vùng Thuận Hóa. Sau khi vượt sông Thạch Hãn, thấy phong thủy hữu tình, đất đai màu mỡ, các Ngài liền rủ nhau chiếm cứ nơi này. Đến đời Lê Thánh Tông, khi nhà Vua ban chiếu chiêu an, các Ngài liền trao toàn bộ sự nghiệp cho con cháu còn mình phụng mệnh trở về đất Bắc và qua đời luôn ở đó. Con cháu trên vùng đất mới suy tôn các Ngài làm tiền khai khẩn và tiếp tục hợp lực để khai hoang lập ấp, hình thành nên cương vực địa giới của làng. Từ đây cái tên Nại Cửu chính thức ra đời (sau này có thời kỳ còn có thêm tên gọi là Nại Diên). Nại Cửu có nghĩa là bền lâu đã phản ánh cô động ý chí, cốt cách của những con người vào định cư ở một vùng đất xa lạ, hiểm nguy, đồng thời cũng là hoài bão, khát vọng vươn tới cái đẹp, cái trường tồn vĩnh hằng cho cả cộng đồng đang tồn tại và con cháu kế nghiệp ở tương lai. Tưởng nhớ công ơn của các Ngài tiền khai khẩn, dân làng đã lập miếu thờ tại khu vực xóm Ngoài và hàng năm vào các dịp tế lễ đều tổ chức nghinh rước về đình làng rất long trọng. Trải qua thời gian và chiến tranh ly loạn, các tư liệu thành văn, các bộ gia phả đã từng được biên soạn, sao chép, lưu giữ, thậm chí là các dạo sắc phong tặng Tiền khai khẩn của nhà nước phong kiến cũng đều bị tiêu tán, mất mát hầu như toàn bộ. Do vậy hiểu biết của con cháu hôm nay đối với các bậc tiền nhân hết sức ít ỏi mơ hồ. Hậu thế ghi ơn người mở nghiệp chỉ là niềm tôn vinh thành kính trong sự lưu giữ truyền thống về một mảnh đất hương hỏa ngàn đời của cha ông.

Noi gương tiên tổ, tiếp bước tiền nhân, các thế hệ con dân làng Nại Cửu trong suốt quá trình phát triển đã tạo ra được mối đoàn kết bền chặt giữa các tộc họ, góp sức xứng đáng vào công cuộc xây dựng quê hương và sự nghiệp đấu tranh vì chính nghĩa. Chính từ mảnh đất này, rất nhiều người đã lên đường vào cuộc Nam tiến mở nước vĩ đại của các triều đình phong kiến Đại Việt; theo anh em nhà Tây sơn vung gươm đạp đổ mọi thế lực quân chủ bạo tàn, đánh đuổi bè lũ xâm lược thu non sông về một mối. Đặc biệt, khi kinh đô Huế thất thủ, Vua Hàm Nghi xa giá ra Quảng Trị, lên sơn phòng Tân sở hạ chiếu Cần Vương, một số văn thân, sĩ phu làng Nại Cửu đã đứng lên tham gia phò Vua cứu nước. Khi phong trào Cần Vương thất bại, Vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp lưu đày biệt xứ, có người đã bị bắt, số khác lui về ẩn dật sống cuộc đời thanh bạch tại làng, quyết không chịu cam tâm làm tay sai cho giặc và bè lũ phản dân hại nước…


Trên những dặm đường đi lên cùng đất nước, làng Nại Cửu đã có những văn nhân hiển vinh đường khoa cử được ghi tên vào bảng vàng, bia ký của triều điình phong kiến, những nhân vật cách mạng lỗi lạc đóng góp quan trọng vào sự nghiệp dấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Tiêu biểu phải kể đến Ngài thượng thư Trần Thoại, đỗ "Đệ nhất giáp tiến sĩ thám hoa cập đệ tam danh" tại khoa thi đòi Vua Lê Hiển Tông (năm 1739). Ngài Võ Tử Văn, đổ phó bảng đưới triều Vua Tự Đức. Đồng chí Trần Bỉnh, cán bộ cách mạng giai đoạn tiền khởi nghĩa. Đồng chí Trần Quỳnh, phó Thủ tướng nước cộng hòa XHCN Việt Nam.v.v. Thời kỳ sau năm 1975 cho đến nay, vượt lên trên những khó khăn về kinh tế, người dân Nại Cửu vẫn thắt lưng, buộc bụng để nuôi dưỡng và phát huy truyền thống hiếu học của cha ông. Hiện tại, toàn làng có hơn 600 người là cán bộ, công chức, viên chức, doanh nhân đang công tác tại nhiều địa phương trong cả nước. Trong đó, có một đội ngũ giáo viên đông đảo lên đến hàng trăm người và đươc coi là một "hiện tượng" hiếm có ở tỉnh Quảng Trị. Lực lượng ưu tú này đang đóng góp tích cực vào sự đổi thay, phát triển của quê nhà. Đặc biệt, họ đang cùng toàn thể con dân của làng cả ở trong và ngoài nước nâng niu, gìn giữ, tô bồi cái bản sắc văn hóa quý báu của người Nại Cửu, đó là truyền thống trọng học, trọng lễ nghĩa; đức tính hiền hòa, nhân ái; tinh thần cần cù, chịu thương chịu khó và một tấm lòng thủy chung son sắt, "ly hương bất ly tổ".

Xuân mới đã bừng lên trên đôi bờ Vĩnh Định. Nắng ấm đang dâng tràn từ xóm Rôộc, xóm ngoài đến Đèo Pheo, Bàu Chúa, Giàng Xay… Người Nại Cửu dù đi đâu ở đâu hãy luôn hướng về quê hương nguồn cội, để mảnh đất nơi chúng ta cắt rốn, chôn rau mãi luôn trường cửu, đẹp giàu như niềm mong của Tiên Tổ.
Võ Nguyên Thủy
Đài PTTH Quảng Trị

2 comments:

conghc76 said...

Tác giả bài này là anh Võ Nguyên Thủy, Đài PTTH Quảng Trị.

Unknown said...

Bai đằng về lang nai cuu thật hay