PHẠM NGỌC THÁI
VỚI NỖI QUÊ TÌNH NHÀ NHỮNG NĂM XA XỨ
TIẾNG HÁT ĐỜI THƯỜNG
Tặng vợ
Trong một phố nghèo có người vợ
trẻ
Vẫn đón con đi, về... như thường lệ
Vóc em thanh cũng thể mùa
xuân
Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen.
Ngôi nhà nhỏ bên đền
Gốc đa, quán báo
Nơi ngày xưa ai bán chiếu gon (*)
Đêm hồ nước trăng soi
Chiều lá me, lá sấu
Cung thành xưa dấu đại bác còn.
(**)
Ôi quê hương!
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán
nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc
rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
Miền đã theo tôi vào cuộc chiến
tranh
Hành quân rừng già, võng treo
sườn gió...
Ai biết chiều nay người vợ trẻ
Đứng mong chồng bên đứa con thơ
Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc
xanh thu!
Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa
cau...
Đi đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!
Đôi mắt em buồn cho bài hát anh
ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào
bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...
Phạm Ngọc Thái
Nước Đức - tháng 2/1989
(*) Gợi lại câu
chuyện bà Thị Lộ thời con gái đi bán chiếu gon ở hồ Tây, đã gặp ông Nguyễn
Trãi. Sự tích còn truyền tụng đến ngày nay.
(**) Là hình ảnh
mặt thành Thăng Long Cửa Bắc cố đô xưa, còn in dấu đạn đại bác từ thời giặc
Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, quan Tổng đốc Hoàng Diệu phải thắt cổ
để tuẫn tiết.
LỜI BÌNH:
Truyền kể lại
rằng, trong một khu phố nhỏ có một người vợ trẻ cùng đứa con thơ, ngày tháng
chờ chồng ra đi nơi đất khách vì miếng cơm manh áo.
Tiếng Hát Đời
Thường là một bài thơ về quê hương. Những hình ảnh rất thân thuộc nhưng vẫn
mang tính điển hình, khái quát. Từ căn nhà bên ngôi đền cổ quanh năm rợp bóng
đa chùa, cái quán báo trong phố, đến cảnh sóng nước hồ Tây. Được gợi lại bằng
câu chuyện cổ của bà Thị Lộ đi bán chiếu gon, đã gặp ông Nguyễn Trãi và những
vần thơ đối đáp giữa hai người.
Qua bao hình ảnh
mà người ra đi ở phương trời xa thường hay nhớ. Những đêm trăng hồ, những chiều
lá sấu, lá me rơi. Cả chiếc cổng đá của cung thành cố đô xưa, vẫn còn in dấu
đạn đại bác từ thời giặc Pháp bắn vào. Thành Thăng Long thất thủ, tổng đốc
Hoàng Diệu đã phải thắt cổ để tuẫn tiết. Đó là một bức tranh quê với tiết tấu
thơ đầy chất trữ tình. Rồi những hình ảnh sinh sống hàng ngày trước đây mà nhà
thơ nhớ lại:
Cái phố nhỏ cứ mưa là lầy lội
Cháu gái nhà bên tuổi không đoán nổi
Chưa tối đã khêu đèn bê mẹt thuốc rao đêm
Ngày hai bữa, bữa nào cũng vội.
Người chồng ấy
vẫn đau đáu nhớ về nơi vợ con đang trông đợi:
Tuyết bạc quê người... xứ sở mưa cau...
Đi
đâu, đến đâu: nhớ về phố ấy!
Cái miền quê một
thuở nào vẫn theo anh trong suốt cuộc chiến năm xưa:
Miền đã theo tôi vào cuộc chiến tranh
Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
Bài thơ được
viết trong nỗi nhớ mong hiu hắt của kẻ đang lưu lạc xứ người. Đó là những tiếng
nói yêu thương, xao xiết thường tình chốn dân gian, càng làm cho tình thơ thêm
tha thiết:
Đôi mắt em buồn cho bài hát anh ca
Con sẻ hót mênh mông đồng nước
Người hát rong hát vui sân ga...
Cái tiếng hát
đời thường ấy có thể là một khúc đàn dạo của người hát rong trên sân ga, tiếng
rao của em bé bán báo, hoặc tiếng gọi đò trên sông trong đêm vắng. Nó máu thịt
như người vợ quê ta, như bà mẹ già tóc bạc, như nồi khoai, củ sắn ngày tám
tháng ba. Cũng có khi ánh lên niềm vui bên bếp lửa hồng của những người thân.
Ngày ngày ta vẫn từng nghe ở đâu đấy vọng lên thảng thốt, để rồi bay đi lẫn vào
trong cát bụi cuộc đời:
Tiếng Hát Đời Thường thường lẫn vào bụi cát
Anh hát cho đời...
Anh hát em nghe...
Và tình thi Tiếng
Hát Đời Thường da diết máu tim đã khép lại ở đó.
(Hà Nội)
Trích trong
"Phê bình & tiểu luận thi ca - Phạm Ngọc Thái - 2013"
No comments:
Post a Comment